Có nhiều kiểu phân chia sách Tin Mừng thứ IV. Mỗi kiểu phân chia dựa trên vài điểm làm nền tảng. Khó có thể hướng về một kiểu nhất định, duy nhất. Vì thế, xin tạm đề nghị kiểu phân chia sau đây tương đối hợp lý hơn cả.
Kiểu phân chia này dựa vào các lễ phụng vụ Dothái (3 lễ vượt qua: 2,13; 6,4; 11,55 - một lễ không được xác định: 5,1 - lễ lều: 7,2 - lễ cung hiến đền thờ: 10,22) và cách phân chia cuộc đời Ðức Giêsu thành những giai đoạn rõ rệt (tuần lễ): (tuần lễ khai mạc: 1,19-2,11 - tuần lễ lều: 7,2.14.37 - tuần lễ thương khó: 12,1.12; 19,31.42, nằm giữa việc mai táng thực thụ: 19,38tt). Với những yếu tố vừa kể, có thể phân chia sách Tin Mừng thứ IV như sau:
I. LỜI TỰA (Chương 1,1-18)
II. SỨ VỤ CỦA ÐỨC GIÊSU (Chương 1,19-12,50)
1. Loan báo nhiệm cục mới (1,19-12,50)
2. Lễ thứ II tại Giêrusalem (5,1-47)
3. Lễ vượt qua. Diễn từ về bánh trường sinh (6,1-7,1)
4. Lễ lều (7,1-10,21)
5. Lễ cung hiến đền thờ (10,22-11,54)
6. Sứ vụ công khai của Ðức Giêsu kết thúc (11,55-12,50)
III. GIỜ CỦA ÐỨC GIÊSU
1. Bữa ăn cuối cùng của Ðức Giêsu với các môn đệ (13,1-17,26)
2. Cuộc Thương Khó (18,1-19,42)
3. Ngày Phục Sinh (20,1-29)
4. Kết luận thứ nhất (20,30-31)
IV. ÐOẠN CUỐI
Tin Mừng theo Thánh Gioan (Chương 21)
Ga 20,31 làm nổi bật mục tiêu của sách Tin Mừng thứ IV: "Những điều đã được chép ở đây (trong sách này) là để anh em tin rằng Ðức Giêsu là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người". Ðó là sách Tin Mừng đem tin vui cho những kẻ tin vào Ðức Giêsu là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa: ai tin vào Người thì được sự sống nhờ danh Người. Như các sách Tin Mừng Nhất Lãm, Gioan trình bày những nét chính yếu của lời rao giảng tiên khởi (Kerygma): ông Gioan Tẩy Giả làm chứng rằng Ðức Giêsu là Ðấng Mêsia nhờ Thánh Thần ngự xuống (1,31-34); Ðức Giêsu dùng việc làm và lời nói nhằm mặc khải Thiên Chúa và hoạt động cứu độ của Người (1,35-12,50); trình thuật về cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Ðức Giêsu cũng như những cuộc hiện ra của Người (13,1-20,20); sứ mạng trao cho các Tông Ðồ (20,21). Nhưng sách Tin Mừng thứ IV có nhiều điểm khác biệt với các sách Tin Mừng Nhất Lãm: cấu trúc, niên đại, cách trình bày các phép lạ và lời nói của Ðức Giêsu, cách tường thuật cùng những sự kiện như các sách Tin Mừng Nhất Lãm... Sự khác biệt thiết yếu vẫn là cái nhìn về mầu nhiệm Ðức Kitô. Ðối với sách Tin Mừng thứ IV, Ðức Kitô không chỉ là Ðấng Mêsia đến trần gian nhằm làm ứng nghiệm những lời tiên báo của các ngôn sứ Cựu Ước và thiết lập Nước Trời (Mátthêu); Người cũng không chỉ là Ðấng Mêsia, Con Thiên Chúa (Máccô), hoặc là Vị Cứu Chúa đến công bố sứ điệp diễn tả lòng khoan dung của Người đối với nhân loại (Luca). Theo tác giả của Gioan, Ðức Giêsu chính là Con Thiên Chúa, là Ðấng Mêsia mang đến cho thế gian đức tin và sự sống đời đời (20,31).
Nói chung, Gioan cho độc giả cảm tưởng đó là cuốn sách có sự duy nhất. Nhưng khi đọc kỹ, độc giả sẽ nhận thấy những dấu vết của một tình trạng thiếu trật tự nào đó ít nhất bên ngoài: cuốn sách không tiến triển đều đặn; độc giả gặp những đoạn như nằm ngoài mạch văn:
* Ga 3,22-30 như làm đứt đoạn diễn từ của Ðức Giêsu nói với ông Nicôđêmô. Ðặt 3,31 ngay sau 3,21 thì hợp lý hơn.
* Ðáng lẽ ch.6 phải nằm giữa ch. 4 và ch. 5. Như thế lộ trình của Ðức Giêsu sẽ như sau: từ miền Giuđê, Người đến miền Galilê (4,54), sang bên kia biển hồ Galilê (6,1), rồi Người lên Giêrusalem (5,1) và trở về Galilê (7,1).
* Phải hơn Ga 10,19-21 nằm ngay sau 9,41, vì c. 20,21 có cùng chung một chủ đề với ch. 9. Ga 14,31 phải là câu kết của bài diễn từ cáo biệt. Như thế, các ch. 15 và 16 đáng lẽ phải ở nơi nào đó trước câu này.
* Ga 20,30-31 là đoạn kết của Gioan. Rõ ràng, Ga 21 là một phụ trương.
* Ga 7,53-8,11 không nằm trong mạch văn trước và sau. Theo văn thể và cách hành văn, đoạn này rất gần truyền thống Nhất Lãm, cách riêng Luca.
* Ga 5,3b-4: nhiều bản chép tay quan trọng bỏ những câu này. Ngày nay, các học giả thường công nhận: đó là lời chú nhằm cắt nghĩa c. 7 nói đến nước khuấy lên.
* Ga 12,44-50 nằm ở ngoài mạch văn.
Những điều dị thường kể ở trên xuất phát từ cách thức Gioan đã được soạn thảo và xuất bản: đó là tình trạng các vật liệu được dùng tăng dần theo thời gian, qua những lần xuất bản kế tiếp nhau. Công việc soạn thảo và xuất bản ấy đòi phải sửa chữa, thêm bớt... Trong tiến trình hình thành của Gioan, vài học giả nhận ra năm giai đoạn:
-- Giai đoạn I: Trước hết, có một tổng thể các vật liệu thuộc truyền khẩu liên quan đến lời nói, việc làm của Ðức Giêsu. Những vật liệu đó giống như các vật liệu đã cấu thành các sách Tin Mừng Nhất Lãm, nhưng phát xuất từ một nguồn khác.
-- Giai đoạn II: Trong một giai đoạn có lẽ đã kéo dài qua nhiều thập niên, những vật liệu ấy đã được tuyển chọn, suy đi nghĩ lại và uốn nắn thành những trình thuật riêng biệt và những diễn từ trong khi rao giảng và giáo huấn. Vào cuối giai đoạn thứ hai này, người ta bắt đầu ghi lại những vật liệu dùng trong công việc rao giảng và giáo huấn. Kiểu hành văn trong đoạn 7,53-8,11 hoặc ch. 21 chẳng hạn... không giống kiểu hành văn của những đoạn khác trong Gioan. Ðó là dấu vết của nhiều tác giả đã góp phần soạn thảo. Nhưng nói cách chung, phần lớn tác phẩm phát xuất từ một nguồn chính. Chắc nguồn chính đó phải là một môn phái thần học quy tụ chung quanh một vị tôn sư. Vị tôn sư này đóng vai trò chính yếu trong tiến trình hình thành của tác phẩm.
-- Giai đoạn III: Những vật liệu ghi lại đó được sử dụng để cấu thành một tác phẩm. Ðó là sách Tin Mừng trong lần xuất bản đầu tiên. Chắc vị tôn sư đã có sáng kiến thực hiện tác phẩm này. Và theo vài học giả, vị tôn sư đó chính là tác giả sách Tin Mừng. Tác phẩm này không gom lại tất cả các vật liệu do truyền thống Gioan cung cấp.
-- Giai đoạn IV: Rồi tác giả sách Tin Mừng cho xuất bản tác phẩm lần thứ hai. Có những đoạn hoặc phần mới lạ được ghép vào nhằm đáp ứng những nhu cầu mới hoặc giải đáp những vấn nạn do vài nhóm nêu lên: các môn đệ của ông Gioan Tẩy Giả, những tín hữu gốc Dothái...
-- Giai đoạn V: Sau hết, một (hoặc các) nhân vật gọi là "soạn giả", đồ đệ hay bạn thân của tác giả, đảm nhận công việc xuất bản tác phẩm lần thứ ba. Lần xuất bản này là thành quả của công việc đem vào tác phẩm thuộc giai đoạn IV những vật liệu thuộc truyền thống Gioan chưa nằm trong tác phẩm.
Như thế, sách Tin Mừng IV không chỉ có một tác giả duy nhất. Rất nhiều người đã đóng góp vào truyền thống Gioan: truyền khẩu, các đơn vị văn chương... Ngoài ra, còn có tác giả chính và soạn giả hoặc những soạn giả...
Nhưng tác giả chính là ai? Theo truyền thống, tông đồ Gioan, con ông Dêbêđê và em ông Giacôbê, đã viết sách Tin Mừng thứ IV. Cuối thế kỷ thứ II, vào năm 180, thánh Irênê (trong cuốn Adversus Haereses III,1,1) Quy điển của Muratori (165-185), ông Cơlêmentê thành Alêxanria (qua đời vào 211-216) đã quả quyết điều đó. Sách Tin Mừng thứ IV không ghi tên tác giả. Ga 21,20 nói đến "người môn đệ Ðức Giêsu thương mến". Theo 21,24, "chính môn đệ này làm chứng về những điều đó (= những sự kiện kể trong Gioan) và đã viết ra".
Người môn đệ ấy là ai? Trong bữa Tiệc Ly, người môn đệ ấy để đầu tựa vào lòng Ðức Giêsu (Ga 13,23). Ông đứng gần thập giá, khi Ðức Giêsu giao phó thân mẫu cho mình (Ga 19,26). Sáng sớm Chúa Nhật Phục Sinh, ông và ông Phêrô chạy ra mộ (Ga 20,2.3.4.8). Ở trên bãi biển hồ Tibêria, ông nhận ra Ðức Giêsu trước các môn đệ khác (Ga 21,7); ông là đối tượng của cuộc nói chuyện giữa Ðức Giêsu và ông Phêrô (Ga 21,20-23).
Chắc chắn "người môn đệ Ðức Giêsu thương mến" phải là một Tông Ðồ, vì dựa vào các sách Tin Mừng Nhất Lãm chúng ta thấy: chỉ có các Tông Ðồ mới có mặt trong bữa Tiệc Ly. Theo cách diễn tả của Gioan, người môn đệ đó thuộc nhóm ba môn đệ thân tín của Ðức Giêsu. Môn đệ đó không phải là ông Phêrô, vì ông Phêrô ở gần bên ông ấy mấy lần (Ga 13,23-24; 20,2-4.6.8-10; 21,20-23). Môn đệ đó cũng không phải là ông Giacôbê đã chịu tử đạo vào năm 44 (x. Cv 12,2), còn môn đệ đó thì lại sống khá lâu theo Ga 21,20-23. Như thế, có lẽ phải kết luận rằng môn đệ đó chính là Tông đồ Gioan.
Sách Tin Mừng thứ IV đã được soạn thảo tại miền Tiểu Á theo lời chứng của lời tựa chống Máckiôn, của thánh Giêrônimô và Êpiphan. Thánh Irênê nói rõ: tại Êphêxô. Nói chung, các học giả công nhận ý kiến này. Nhưng cũng có vài nhân vật như thánh Eprem, ông Tatianô... lại chủ trương: Antiôkhia, xứ Xyria, mới là nơi soạn thảo. Dĩ nhiên, thánh Gioan đã rao giảng tại Antiôkhia. Nhưng theo truyền thống, ngài đã qua giai đoạn sau cùng trong cuộc đời, một giai đoạn khá dài, tại Êphêxô. Có lẽ vì lý do đó, chung chung người ta đã chọn Êphêxô hơn là Antiôkhia. Bởi vì sách Tin Mừng thứ IV không phải chỉ có một tác giả duy nhất, nên chắc phải phân biệt như sau: 1) những phần của chính thánh Gioan đã được soạn thảo tại Êphêxô; 2) còn về các phần khác do (các) soạn giả và các môn đệ của thánh Gioan soạn thảo, thì khó mà xác định được là ở Êphêxô hoặc ở nơi khác.
Về năm soạn thảo, chúng ta chỉ có thể đưa ra một ý kiến có khả năng đúng. Sách Tin Mừng thứ IV được người ta cho biết đến từ tiền bán thế kỷ thứ II, vì đã được trích dẫn hay đã gây ảnh hưởng: thánh Giúttinô (Apologie 61,4) (vào năm 150); Hermas (Pasteur) (vào năm 140); thánh Pôlycáp (Thư gửi các tín hữu Philípphê) (vào năm 110); thánh Inhaxiô Antiôkhia (các thư) (vào năm 110); tác phẩm Odes de Salomon (tiền bán thế kỷ thứ II); sách viết trên giấy cói Rylands 457... Theo thánh Irênê và ông Cơlêmentê Alêxanria, có lẽ thánh Gioan đã sống đến thời hoàng đế Tragianô (98-117). Như thế, nếu trừ đi thời gian cần thiết để phổ biến sách Tin Mừng, chúng ta có thể nghĩ rằng một số phần thuộc sách Tin Mừng thứ IV đã được soạn thảo vào những năm cuối của thế kỷ thứ I.
Mỗi tác giả sách Tin Mừng có một cái nhìn độc đáo về mầu nhiệm Ðức Giêsu và sứ mạng của Người đối với nhân loại. Theo Gioan, Ðức Giêsu là Ngôi Lời tiên hữu trong Thiên Chúa (1,1.2) trở nên người phàm (1,14), vì được Chúa Cha sai xuống thế gian (3,17.34; 4,34; 5,36; 6,29; 7,28-29; 8,16.18.26.42; 10,36; 11,42; 17,3.25) để thực hiện một sứ mạng. Sau khi hoàn thành sứ mạng ấy, Người trở về cùng Chúa Cha (7,33; 13,3; 16,5; 17,11.13.23; 20,17). Ðó là mầu nhiệm nhập thể nhắm mục tiêu phục vụ Thiên Chúa là Ðấng muốn cứu độ thế gian. Ðạo lý của Gioan thiết yếu được rút từ Ga 20,31.
I. Mầu nhiệm Ðức Giêsu và sứ mạng cứu độ của Người
Trước hết, mục đích của Gioan là làm nổi bật mầu nhiệm Ðức Giêsu: Người là Con Thiên Chúa, là Ðấng Kitô (20,31a).
Ðối với Thiên Chúa, Ðức Giêsu là Con Một Thiên Chúa (1,14,18; 3,16-18), được Chúa Cha yêu mến (5,20; 15,9; 17,23-24.26), luôn hợp nhất, sống mật thiết và hành động chặt chẽ với Chúa Cha (10,30.38; 14,10-11.20; 17,21-23). Chúa Cha đã trao cho Người nhiệm vụ thực hiện công trình cứu độ (3,17). Vì thế, nỗi ưu tư khắc khoải của Ðức Giêsu, lẽ sống không thể thiếu thì giống như lương thực nuôi sống Ðức Giêsu, đó là "thi hành ý muốn" của Chúa Cha và "hoàn tất công trình của Người" (4,34).
Ðối với nhân loại, Ðức Giêsu là Ðấng Mêsia, Ðấng Kitô (1,41; 4,25-26), nghĩa là "Ðấng được Thiên Chúa tuyển chọn" (1,34), được Thiên Chúa sai đi thực hiện sứ vụ cứu thế (4,42) với tư cách ngôn sứ, tư tế và quân vương.
Ở trong cung lòng Chúa Cha, Ngôi Lời đã thấy, đã nghe tất cả những gì xảy ra trong Thiên Chúa (1,18; 3,11.32; 8,38). Vì thế, Ngôi Lời nhập thể là Chứng nhân có đủ tư cách nhất để diễn tả ý định cứu độ của Chúa Cha, chuyển đạt các lời và giáo huấn của Người (3,32.34; 6,46; 7,29; 8,26.28.38.40; 12,49.50; 14,24; 17,8.14). Ðức Giêsu tuyên bố: Người là: "ánh sáng cho thế gian" (1,4.7.9; 9,5; 12,46), ánh sáng ban ánh sáng cho người mù từ thủa mới sinh (9,6tt), cho những ai không muốn bước đi trong bóng tối (12,35)... Người là "con đường", bởi vì Người là "sự thật" (14,6): Người tỏ bày Chúa Cha (12,45; 14,9), Người dẫn tới Chúa Cha, cho biết Chúa Cha (1,18; 14,6-7); Người còn tỏ bày chính bản thân và sứ mạng của mình đối với nhân loại. Những hoạt động đó đều thuộc vai trò Ngôn Sứ thực hiện công việc mặc khải.
Gioan ít nhấn mạnh đến sứ mạng Tư Tế của Ðức Giêsu. Trong cả sách, chỉ có ch. 17 đề cập vấn đề này. Nói chung, Ga 17,1-26 được gọi là "Lời cầu nguyện của vị thượng tế". Khi "được giương cao lên khỏi mặt đất" (12,321), khi dâng hy lễ trên đồi Gôngôtha, với tư cách thượng tế của Giao Ước Mới, Ðức Giêsu đã cầu nguyện với Chúa Cha cho các môn đệ và tất cả những kẻ sẽ tin vào Người nhờ lời rao giảng của các ông. C. 19 ("Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con") có nghĩa sau đây: Ðức Giêsu tự tách ra khỏi đám phàm nhân để thuộc trọn về Thiên Chúa, bằng việc hiến dâng chính mình làm lễ vật trong hy lễ Gôngôtha với tư cách thượng tế nhằm gây lợi ích cứu độ cho các môn đệ và tín hữu.
Ðức Giêsu là Ðấng Mêsia hoặc Kitô, vì Người có nhiệm vụ thi hành sứ mạng Quân Vương. Thi hành sứ mạng quân vương là thực hiện chủ quyền trên thiên nhiên, ma quỷ, bệnh tật, cái chết và tội lỗi, là trải qua cuộc Thương Khó để chiến thắng cái chết nơi mình và nơi nhân loại. Nhờ thế, Ðức Giêsu trở thành Ðấng hướng dẫn, cai trị, chăm sóc đoàn dân (Mục Tử, Quân Vương), Ðấng ban sự sống...
Gioan không sử dụng từ "phép lạ" ("téras", "térata"), nhưng dùng từ "dấu lạ" ("semeion", "semeia") để chỉ những việc lạ lùng, những kỳ công do Ðức Giêsu làm nhân danh Thiên Chúa (3,2) nhằm thúc giục những người chứng kiến tin rằng sứ mạng của mình phát xuất từ Thiên Chúa (2,11; 9,33; 11,40-42). Gioan thường sử dụng từ "dấu lạ" nói chung (2,23; 3,2; 7,31; 9,16; 11,47; 12,37; 20,30). Tác giả sách Tin Mừng thứ IV không hề nói đến tương quan giữa "dấu lạ" và sứ mạng tư tế. Chỉ một lần (6,14), độc giả nhận thấy có liên lạc giữa "dấu lạ" và sứ mạng ngôn sứ; lần khác (2,11), "dấu lạ" đầu tiên tại Cana được liên kết với vinh quang của Ðức Giêsu. Ngoài ra, ở ba nơi (4,54; 6,2; 12,18), Ðức Giêsu làm các "dấu lạ" có liên quan đến sức khỏe, đến sự sống của con người: Người cho người con trai sắp chết của một sĩ quan được lành bệnh (4,54); Người chữa lành những kẻ đau ốm (6,2); Người cho ông Ladarô được sống lại (11,1-44; 12,18). Ngoài chuyện làm các "dấu lạ" để phục hồi sức khỏe hay sự sống, Ðức Giêsu còn tỏ bày chủ quyền của Người trên thiên nhiên (2,11; 6,10-13.26), bệnh tật (4,46-54; 5,1tt; 6,2; 9,1tt) trên cái chết (11,17.23.5.43-44; 12,9.17), trên ma quỷ (1,5; 12,31; 14,30; 16,11) và tội lỗi (8,36)... Tất cả sứ mạng của Ðức Giêsu quy hướng về "giờ" của Người (2,4; 7,30; 8,20; 12,23.27; 13,1; 17,1), giờ Người bỏ thế gian để về với Chúa Cha (13,1), giờ Người được tôn vinh bên hữu Chúa Cha (12,23; 17,1). Lúc đó là lúc Người được tôn vinh bên hữu Chúa Cha (12,23; 17,1). Lúc đó là lúc Người "được giương cao lên" theo hai nghĩa: "được gương cao lên" thập giá (12,32-33; 8,28) và "được giương cao lên" trời (3,13.14). Nhờ thế, Ðức Giêsu trở thành vị Mục Tử nhân lành (10,11.14.16) biết chiên của mình (10,14.27), chăm sóc, hướng dẫn (10,4), bảo vệ đoàn chiên (10,29), ban sự sống dồi dào cho đoàn chiên (10,10), dẫn đưa những chiên khác về một ràn chiên duy nhất (10,16). Vai trò của Ðức Giêsu cũng là vai trò của vị Quân Vương (1,49; 12,1). Thiên Chúa đã giao mọi sự trong tay Người (3,35; 13,3); Người có quyền năng trên mọi phàm nhân (17,2); không ai có thể cướp khỏi tay Người những kẻ thuộc về Người (10,28). Trình thuật về biến cố Ðức Giêsu vào Giêrusalem cũng như trình thuật về cuộc Thương Khó làm nổi bật vai trò Quân Vương của Người (12,12-16 - 18,36.37; 19,13-15.19-22). Ðức Giêsu đã tiến vào thành Giêrusalem với tư cách là Vua Mêsia (12,13): đó là một cuộc khải hoàn làm cho lời ngôn sứ Dacaria nên ứng nghiệm (12,15; x. Dc 9,9-10). Trong trình thuật về cuộc Thương Khó, những lời nói (18,33.37; 19,14-15) và cách xử sự (19,13.19-22) của tổng trấn Philatô cũng như những kiểu chế giễu của bọn lính Rôma (19,2-3.5) và phản ứng thù nghịch của các thượng tế (19,15.21) là những cách nhắc đi nhắc lại cho độc giả tước hiệu Quân Vương và làm đậm nét tước hiệu này. Nước của Ðức Giêsu không phải là một nước trần gian như các nước khác; Người chẳng có thuộc hạ để bảo vệ bản thân (18,36). Quyền bính của Người thuộc lãnh vực thần linh của sự thật: Người đến làm chứng cho sự thật (18,37).
Với tư cách Con Thiên Chúa, Ðức Giêsu vẫn giữ nơi mình vinh quang mà Người vẫn có bên Chúa Cha trước khi thế giới được tạo thành (17,5). Nhưng trong cuộc sống trần gian của Người, vinh quang đó được che giấu đi: Người không cho vinh quang đó chiếu tỏa vào nhân tính của mình. Ðôi khi, Người hé mở vinh quang đó cho các Tông Ðồ và các khán thính giả, như trong sự kiện biến đổi hình dạng trên núi (có lẽ Ga 1,14 ám chỉ đến sự kiện đó cách kín đáo; x. Mt 17,1tt; Mc 9,2tt; Lc 9,28tt), trong các "dấu lạ" Người làm (2,11; 11,40; 12,28a). Vinh quang đó sẽ được tỏ bày cách trọn vẹn hơn trong biến cố Vượt Qua: vinh quang Phục Sinh là chính vinh quang đời đời (17,22.24) tỏa chiếu trong ngày Ðức Giêsu sống lại, nhưng đã bắt đầu từ lúc Người được giương cao lên thập giá (12,23.28b; 13,31-32; 17,1). Ðức Giêsu ban cho các tín hữu vinh quang Người đã nhận từ Chúa Cha (17,22). Người cũng sẽ cho họ được chiêm ngưỡng vinh quang của Người, khi họ được đoàn tụ với Người (17,24).
Gioan còn muốn đặt tương quan của Ðức Giêsu với sự sống: Ðức Giêsu là Ðấng ban sự sống. Thiên Chúa nắm chủ quyền tuyệt đối trên sự sống. Người đã trao cho Ðức Giêsu quyền làm chủ sự sống (5,21; 10,18; 17,2). Ðức Giêsu mang sự sống nơi mình (1,4; 5,26), Người là sự sống (11,25; 14,6). Vì thế, Người ban sự sống cho các tín hữu (5,21; 6,35.48.51.57.58.63; 10,18). Và phương tiện Người sử dụng để ban sự sống, ấy là ban lời của Người (6,68) và trở nên "bánh trường sinh" (6,35.48), bánh đem lại sự sống cho các tín hữu (6,57-58).
II. Tín hữu và sứ mạng cứu độ của Ðức Giêsu
Phần II của mục "Ðạo lý" dựa trên Ga 20, 31b: "Còn những điều đã chép ở đây là... để anh em Tin mà Ðược Sự Sống nhờ danh Người".
1. "Tin":
Ðức Giêsu dùng các "dấu lạ" để khơi dậy đức tin nơi các khán giả 92,11.23; 4,45.53; 11,15.45.48). Lời rao giảng, giáo huấn của Ðức Giêsu cũng nhắm mục tiêu tạo điều kiện cho đức tin nảy sinh nơi tâm hồn các thính giả (2,22; 4,41.50; 17,8). Ga 19,35 cho thấy: đức tin nơi các độc giả của Gioan phải dựa vào lời chứng của "chứng nhân" là tác giả. Tông đồ Gioan nhìn vào ngôi mộ trống, thấy các di vật còn để trong đó, cũng đã tin (20,8). Nhưng cuối cùng, đức tin của con người đặt vào chính Ðức Giêsu: 1,7 (tin vào Ðức Giêsu là "ánh sáng"); 4,39.42; 5,24.38; 6,29.35.37.44.45.65.70; 7,31.38.39; 8,24.30; 9,35-38; 10,37-38.42; 11,25-26.27.45; 12,11.36.42.44.46; 13,19; 14,1.11.12; 17,20.
Theo Gioan, tin là đón tiếp Ðức Giêsu (1,12; 5,43), là nhận biết Chúa Cha và Ðức Giêsu (17,3), là đến với Ðức Giêsu (3,20-21; 5,40; 6,35.37.44.45; 7,37-38; 14,6), nhận ra Người là Ðấng Chúa Cha sai đến thế gian (5,24.38; 17,8.21.23.25).
Nhiều người đã từ khước Ðức Giêsu, không chịu đón nhận Người và lời của Người (3,32; 5,43; 6,36; 7,5; 8,45-46; 10,25-26; 12,37.48; 16,9). Họ không chịu tin như tông đồ Tôma đã không tin (20,25.27.29). Họ không tin, nên đã bị lên án rồi (3,18).
2. "Ðược sự sống":
Ai tin thì không bị lên án (3,18). Người Kitô hữu "có sự sống" nơi mình, vì được ăn thịt và uống máu Ðức Giêsu (6,53), vì thuộc đoàn chiên của Người (10,10). Vì tin, nên tín hữu "có sự sống" hoặc "có sự sống đời đời" (3,15-16.36; 5,24.40; 6,40.47; 11,26; 20,31). "Sự sống đời đời" (3,15.16.36; 4,14; 5,24.39; 6,40.47.54.68; 10,28; 17,2-3; 20,31) là sự sống mới mà tín hữu lãnh nhận được trong thời cuối cùng như ân huệ do Ðấng Mêsia mang đến. "Có sự sống đời đời" nơi mình là được hiệp thông với Thiên Chúa, Nguồn sống, là lĩnh nhận từ Thiên Chúa sự sống của Người. Sự sống mới đó làm cho tín hữu chiến thắng được cái chết. Sự sống đời đời còn được hiểu theo nhãn quan sêmít và Thánh Kinh về sự biết (X. 17,2-3). Theo nhãn quan này, sự biết không chỉ là sự nhận thức trừu tượng nằm trong lãnh vực trí óc, nhưng phát xuất từ một kinh nghiệm sống và được tình thương thấm nhuần. Vì thế, "có sự sống đời đời" là hiểu biết Chúa Cha cách thực thụ và trọn vẹn, yêu mến Người và gắn bó sâu xa với Người; sự hiểu biết và lòng yêu mến này chỉ đạt được khi tín hữu hiểu biết và yêu mến Chúa Kitô. Ngay từ bây giờ, tín hữu đã lĩnh nhận sự sống mới ấy rồi (3,36; 5,24; 6,40.68).
I. Lời Tựa
(1) Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời.
và Ngôi Lời là Thiên Chúa.
(2) Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa.
thì chẳng có gì được tạo thành.
và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.
và bóng tối đã không diệt được ánh sáng.
tên là Gioan.
để mọi người nhờ ông mà tin.
nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.
và chiếu soi mọi người.
nhưng lại không nhận biết Người.
nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.
thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa.
nhưng do bởi Thiên Chúa.
và cư ngụ giữa chúng ta.
là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật.
tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác.
còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Ðức Giêsu Kitô mà có.
II. Sứ Vụ Của Ðức Giêsu
1. Loan Báo Nhiệm Cục Mới
A. Tuần Lễ Khai Mạc
(19) Và đây là lời chứng của ông Gioan, khi người Dothái từ Giêrusalem cử một số tư tế và mấy thầy Lêvi đến hỏi ông: "Ông là ai?" (20) Ông tuyên bố thẳng thắn, ông tuyên bố rằng: "Tôi không phải là Ðấng Kitô". (21) Họ lại hỏi ông: "Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Êlia không?" Ông nói: "Không phải." - "Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?" Ông đáp: "Không." (22) Họ liền nói với ông: "Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông?"(23) Ông nói:
như ngôn sứ I-sai-a đã nói. (24) Trong nhóm được cử đi, có mấy người thuộc phái Pharisêu. (25) Họ hỏi ông: "Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Ðấng Kitô, cũng không phải là ông Êlia hay vị ngôn sứ?" (26) Ông Gioan trả lời: "Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. (27) Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người." (28) Các việc đó đã xảy ra tại Bêtania, bên kia sông Giođan, nơi ông Gioan làm phép rửa.
(29) Hôm sau, ông Gioan thấy Ðức Giêsu tiến về phía mình, liền nói: "Ðây là Chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xóa bỏ tội trần gian. (30) Chính Người là Ðấng tôi đã nói tới khi bảo rằng:
vì có trước tôi.
(31) Tôi đã không biết Người, nhưng để Người được tỏ ra cho dân Ítraen, tôi đến làm phép rửa trong nước." (32) Ông Gioan còn làm chứng: "Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. (33) Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Ðấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: "Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Ðấng làm phép rửa trong Thánh Thần". (34) Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Ðấng Thiên Chúa tuyển chọn".
(35) Hôm sau, ông Gioan lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. (36) Thấy Ðức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: "Ðây là Chiên Thiên Chúa". (37) Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Ðức Giêsu. (38) Ðức Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi: "Các anh tìm gì thế?" Họ đáp: "Thưa Rápbi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu?" (39) Người bảo họ: "Ðến mà xem". Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng bốn giờ chiều.
(40) Ông Anrê, anh ông Simon Phêrô, là một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Ðức Giêsu. (41) Trước hết, ông gặp em mình là ông Simon và nói: "Chúng tôi đã gặp Ðấng Mêsia" (nghĩa là Ðấng Kitô). (42) Rồi ông dẫn em mình đến gặp Ðức Giêsu. Ðức Giêsu nhìn ông Simon và nói: "Anh là Simon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha" (tức là Phêrô).
(43) Hôm sau, Ðức Giêsu quyết định đi tới miền Galilê. Người gặp ông Philípphê và nói: "Anh hãy theo tôi". (44) Ông Philípphê là người Bétxaiđa, cùng quê với các ông Anrê và Phêrô.
(45) Ông Philípphê gặp ông Nathanaen và nói: "Ðấng mà sách Luật Môsê và các ngôn sứ nói tới, chúng tôi đã gặp: đó là ông Giêsu, con ông Giuse, người Nadarét". (46) Ông Nathanaen liền bảo: "Từ Nadarét, làm sao có cái gì hay được?" Ông Philípphê trả lời: "Cứ đến mà xem!" (47) Ðức Giêsu thấy ông Nathanaen tiến về phía mình, liền nói về ông rằng: "Ðây đích thật là một người Ítraen, lòng dạ không có gì gian dối". (48) Ông Nathanaen hỏi Người: "Làm sao Ngài lại biết tôi?" Ðức Giêsu trả lời: "Trước khi Philípphê gọi anh, lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh rồi". (49) Ông Nathanaen nói: "Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là Vua Ítraen!" (50) Ðức Giêsu đáp: "Vì tôi nói với anh là tôi đã thấy anh ở dưới cây vả, nên anh tin! Anh sẽ còn được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa". (51) Người lại nói: "Thật, tôi bảo thật các anh, các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người".
(1) Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Cana miền Galilê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Ðức Giêsu. (2) Ðức Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham dự. (3) Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Ðức Giêsu nói với Người: "Họ hết rượu rồi". (4) Ðức Giêsu đáp: "Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và con? Giờ của con chưa đến". (5) Thân mẫu Người nói với gia nhân: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo".
(6) Ở đó có đặt sáu chum bằng đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Dothái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước.(7) Ðức Giêsu bảo họ: "Các anh đổ đầy nước vào chum đi!" Và họ đổ đầy tới miệng. (8) Rồi Người nói với họ: "Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc". Họ liền đem cho ông. (9) Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hóa thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết), ông mới gọi tân lang lại (10) và nói: "Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon cho đến mãi bây giờ". (11) Ðức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana miền Galilê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người. (12) Sau đó, Người cùng với thân mẫu, anh em và các môn đệ xuống Caphácnaum và ở lại đó ít ngày.
B. Lễ Vượt Qua Thứ Nhất
(13) Gần đến lễ Vượt Qua của người Dothái, Ðức Giêsu lên thành Giêrusalem. (14) Người thấy trong Ðền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. (15) Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Ðền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. (16) Người nói với những kẻ bán bồ câu: "Ðem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán". (17) Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh:
Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân.
(18) Người Dothái hỏi Ðức Giêsu: "Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?" (19) Ðức Giêsu đáp: "Các ông cứ phá hủy Ðền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại". (20) Người Dothái nói: "Ðền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao?" (21) Nhưng Ðền Thờ Ðức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người. (22) Vậy, khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, Họ tin vào Kinh Thánh và lời Ðức Giêsu đã nói.
(23) Trong lúc Ðức Giêsu ở Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, có nhiều kẻ tin vào danh Người bởi đã chứng kiến các dấu lạ Người làm. (24) Nhưng chính Ðức Giêsu không tin họ, vì Người biết họ hết thảy, (25) và không cần ai làm chứng về con người. Quả thật, chính Người biết có gì trong lòng con người.
(1) Trong nhóm Pharisêu, có một người tên là Nicôđêmô, một thủ lãnh của người Dothái. (2) Ông đến gặp Ðức Giêsu ban đêm. Ông nói với Người: "Thưa Thầy, chúng tôi biết: Thầy là một vị tôn sư được Thiên Chúa sai đến. Quả vậy, chẳng ai làm được những dấu lạ Thầy làm, nếu Thiên Chúa không ở cùng người ấy". (3) Ðức Giêsu trả lời:
nếu không được sinh ra bởi ơn trên".
(4) Ông Nicôđêmô thưa: "Một người đã già rồi, làm sao có thể sinh ra được? Chẳng lẽ người đó có thể trở vào lòng mẹ lần thứ hai để sinh ra sao?" (5) Ðức Giêsu đáp:
nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí.
còn cái gì bởi Thần Khí mà sinh ra, thì là thần khí.
các ông cần phải được sinh ra bởi ơn trên.
nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu.
Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng vậy".
(9) Ông Nicôđêmô hỏi Người: "Làm sao những chuyện ấy có thể xảy ra được?" (10) Ðức Giêsu đáp:
nhưng các ông không nhận lời chứng của chúng tôi.
ngoại trừ Con Người, Ðấng từ trời xuống.
thì được sống muôn đời.
thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.
mà được cứu độ.
vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.
vì các việc họ làm đều xấu xa.
để các việc họ làm khỏi bị chê trách.
đã được thực hiện trong Thiên Chúa".
(22) Sau đó, Ðức Giêsu và các môn đệ đi tới miền Giuđê. Người ở lại nơi ấy với các ông và làm phép rửa. (23) Còn ông Gioan, ông cũng đang làm phép rửa tại Ênôn, gần Salêm, vì ở đấy có nhiều nước, và người ta thường đến chịu phép rửa. (24) Lúc ấy, ông Gioan chưa bị tống giam.
(25) Bấy giờ, có một cuộc tranh luận xảy ra giữa các môn đệ của ông Gioan và một người Dothái về việc thanh tẩy. (26) Họ đến gặp ông Gioan và nói: "Thưa Thầy, người trước đây đã ở với Thầy bên kia sông Giođan và được Thầy làm chứng cho, bây giờ ông ấy cũng đang làm phép rửa, và thiên hạ đều đến với ông". (27)Ông Gioan trả lời:
"Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban".
(28) Chính anh em làm chứng cho Thầy là Thầy đã nói: "Tôi đây không phải là Ðấng Kitô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người".
(29) Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Ðó là niềm vui của Thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn.
(30) Người phải nổi bật lên, còn Thầy phải lu mờ đi.
và nói những chuyện dưới đất.
nhưng chẳng ai nhận lời chứng của Người.
thì xác nhận Thiên Chúa là Ðấng chân thật.
vì Thiên Chúa ban Thần Khí cho Người vô ngần vô hạn.
và đã giao mọi sự trong tay Người.
nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy.
Tin Mừng theo Thánh Gioan Chương 04
Ðức Giêsu tại Sa-ma-ri
(1) Nhóm Pharisêu nghe tin Ðức Giêsu thâu nạp và làm phép rửa cho nhiều môn đệ hơn ông Gioan. (2) (Thực ra, không phải chính Ðức Giêsu làm phép rửa, nhưng là các môn đệ của Người). (3) Biết thế, Ðức Giêsu bỏ miền Giuđê mà trở lại miền Galilê. (4) Do đó, Người phải băng qua Samari. (5) Vậy, Người đến một thành xứ Samari, tên là Xykha, gần thửa đất ông Giacóp đã cho con là ông Giuse. (6) Ở đấy, có giếng của ông Giacóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa.
(7) Có một người phụ nữ Samari đến lấy nước. Ðức Giêsu nói với người ấy: "Chị cho tôi xin chút nước uống!" (8) Quả thế, các môn đệ của Người đã vào thành mua thức ăn. (9) Người phụ nữ Samari liền nói: "Ông là người Dothái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?" Quả thế, người Dothái không được giao thiệp với nguòi Samari. (10) Ðức Giêsu trả lời:
"Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban,
và ai là người nói với chị:
"Cho tôi chút nước uống",
thì hẳn chị đã xin,
và người ấy ban cho chị nước hằng sống".
(11) Chị ấy nói: "Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? (12) Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ Giacóp chúng tôi, là người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã uống giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy". (13) Ðức Giêsu trả lời:
"Ai uống nước này,
sẽ lại khát.
(14) Còn ai uống nước tôi cho,
sẽ không bao giờ khát nữa.
Và nước tôi cho
sẽ trở thành nơi người ấy
một mạch nước vọt lên,
đem lại sự sống đời đời".
(15) Người phụ nữ nói với Ðức Giêsu: "Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước". (16) Người bảo chị ấy: "Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây". (17) Người phụ nữ đáp: "Tôi không có chồng". Ðức Giêsu bảo: "Chị nói: 'Tôi không có chồng' là phải, (18) vì chị đã năm đời chồng rồi, và hiện người đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng". (19) Người phụ nữ nói với Người: "Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ... (20) Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Giêrusalem mới chính là nơi thờ phượng Thiên Chúa". (21) Ðức Giêsu phán:
"Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ
các người sẽ thờ phượng Chúa Cha,
không phải trên núi này
hay tại Giêrusalem.
(22) Các người thờ Ðấng các người không biết;
còn chúng tôi thờ Ðấng chúng tôi biết,
vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Dothái.
(23) Nhưng giờ đã đến - và chính lúc này đây
giờ những người thờ phượng đích thực
sẽ thờ phượng Chúa Cha
trong thần khí và sự thật,
vì Chúa Cha tìm kiếm
những ai thờ phượng Người như thế.
(24) Thiên Chúa là thần khí,
và những kẻ thờ phượng Người
phải thờ phượng trong thần khí và sự thật".
(25) Người phụ nữ thưa: "Tôi biết Ðấng Mêsia, gọi là Ðức Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự". (26) Ðức Giêsu nói: "Ðấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây".
(27) Vừa lúc đó, các môn đệ trở về. Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói chuyện với một phụ nữ. Tuy thế, không ai dám hỏi: "Thầy cần gì vậy?" Hoặc "Thầy nói gì với chị ấy?" (28) Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: (29) "Ðến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Ðấng Kitô sao?" (30) Họ ra khỏi thành và đến gặp Người.
(31) Trong khi đó, các môn đệ thưa với Người rằng: "Rápbi, xin mời Thầy dùng bữa". (32) Người nói với các ông: "Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết". (33) Các môn đệ mới hỏi nhau: "Ðã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng?" (34) Ðức Giêsu nói với các ông:
"Lương thực của Thầy
là thi hành ý muốn của Ðấng đã sai Thầy,
và hoàn tất công trình của Người.
(35) Nào anh em chẳng nói:
Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt?
Nhưng này, Thầy bảo anh em:
Ngước mắt lên mà xem,
đồng lúa đã chín vàng
đang chờ ngày gặt hái!
(36) Ai gặt thì lãnh tiền công
và thu hoa lợi để được sống muôn đời,
và như thế, cả người gieo lẫn kẻ gặt
đều hớn hở vui mừng.
(37) Thật vậy, câu tục ngữ "kẻ này gieo, người kia gặt"
quả là đúng!
(38) Thầy sai anh em đi gặt
những gì chính anh em đã không phải vất vả làm ra.
Người khác đã làm lụng vất vả;
còn anh em, anh em được vào hưởng
kết quả công lao của họ".
(39) Có nhiều người Samari trong thành đó đã tin vào Ðức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng: ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm. (40) Vậy, khi đến gặp Người, dân Samari xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày. (41) Số người tin vì lời Ðức Giêsu nói còn đông hơn nữa. (42) Họ bảo người phụ nữ: "Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Ðấng cứu độ trần gian".
Ðức Giêsu ở Ga-li-lê
(43) Sau hai ngày, Ðức Giêsu bỏ nơi đó đi Galilê. (44) Chính Người đã quả quyết: ngôn sứ không được tôn trọng tại quê hương mình. (45) Khi người đến Galilê, dân chúng trong miền đón tiếp Người, vì đã chứng kiến tất cả những gì Người làm tại Giêrusalem trong dịp lễ, bởi lẽ chính họ cũng đã đi dự lễ.
Dấu lạ thứ hai ở Cana:
Ðức Giêsu chữa con của một sĩ quan cận vệ của nhà vua
(46) Vậy Người trở lại Cana miền Galilê, là nơi Người đã làm cho nước hóa thành rượu. Bấy giờ có một sĩ quan cận vệ của nhà vua có đứa con trai đang bị bệnh tại Caphácnaum. (47) Khi nghe tin Ðức Giêsu từ Giuđê đến Galilê, ông tới gặp và xin Người xuống chữa con ông vì nó sắp chết. (48) Ðức Giêsu nói với ông: "Nếu không thấy dấu lạ điềm thiêng, các ông sẽ chẳng tin đâu!" (49) Viên sĩ quan nói: "Thưa Ngài, xin Ngài xuống cho, kẻo cháu nó chết mất!" (50) Ðức Giêsu bảo: "Ông cứ về đi, con ông sống". Ông tin vào lời Ðức Giêsu nói với mình, và ra về. (51) Ông còn đang đi xuống, thì gia nhân đã đón gặp và nói là con ông sống rồi. (52) Ông hỏi họ con ông đã bắt đầu khá hơn vào giờ nào. Họ đáp: "Hôm qua, vào lúc một giờ trưa thì cậu hết sốt". (53) Người cha nhận ra là vào đúng giờ đó, Ðức Giêsu đã nói với mình: "Con ông sống", nên ông và cả nhà đều tin. (54) Ðó là dấu lạ thứ hai Ðức Giêsu đã làm, khi Người từ miền Giuđê đến miền Galilê
Chương 05 -
2. Lễ Thứ Hai Tại Giê-Ru-Sa-Lem
Ðức Giêsu chữa một người đau ốm ở hồ nước tại Bết-da-tha
(1) Sau đó, nhân dịp lễ của người Dothái, Ðức Giêsu lên Giêrusalem. (2) Tại Giêrusalem, gần Cửa Chiên, có một hồ nước, tiếng Hipri gọi là Bếtdatha. Hồ này có năm hành lang. (3) Nhiều người đau ốm, đui mù, què quặt, bất toại nằm la liệt ở đó, (chờ cho nước động, (4) vì thỉnh thoảng có thiên thần Chúa xuống hồ khuấy nước lên; khi nước khuấy lên, ai xuống trước, thì dù mắc bệnh gì đi nữa, cũng được khỏi). (5) Ở đó, có một người đau ốm đã ba mươi tám năm. (6) Ðức Giêsu thấy anh ta nằm đấy và biết anh sống trong tình trạng đó đã lâu, thì nói: "Anh có muốn khỏi bệnh không?" (7) Bệnh nhân đáp: "Thưa Ngài, tôi không có người đem tôi xuống hồ, khi nước khuấy lên. Lúc tôi tới đó, thì đã có người khác xuống trước mất rồi!" (8) Ðức Giêsu bảo: "Anh hãy chỗi dậy, vác chõng và đi!" (9) Người ấy liền được khỏi bệnh, vác chõng và bước đi.
Hôm đó lại là ngày sabát. (10) Người Dothái mới nói với kẻ được khỏi bệnh: "Hôm nay là ngày sabát, anh không được phép vác chõng!" (11) Nhưng anh đáp: "Chính người chữa tôi khỏi bệnh đã nói với tôi: 'Anh hãy vác chõng và đi!'" (12) Họ hỏi anh: "Ai là người đã bảo anh: 'Vác chõng và đi'?" (13) Nhưng người đã được khỏi bệnh không biết là ai. Quả thế, Ðức Giêsu đã lánh đi, vì có đám đông ở đấy. (14) Sau đó, Ðức Giêsu gặp người ấy trong Ðền Thờ và nói: "Này, anh đã được khỏi bệnh. Ðừng phạm tội nữa, kẻo lại phải khốn hơn trước!" (15) Anh ta đi nói với người Dothái: Ðức Giêsu là người đã chữa anh khỏi bệnh. (16) Do đó, người Dothái chống đối Ðức Giêsu, vì Người hay chữa bệnh ngày sabát. (17) Nhưng Ðức Giêsu đáp lại: "Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc". (18) Bởi vậy, người Dothái lại càng tìm cách giết Ðức Giêsu, vì không những Người phá luật sabát, lại còn nói Thiên Chúa là Cha của mình, và như thế là tự coi mình ngang hàng với Thiên Chúa.
Diễn từ về công việc của Chúa Con
(19) Ðức Giêsu lên tiếng nói với họ rằng:
"Thật, tôi bảo thật các ông:
người Con không thể tự mình làm bất cứ điều gì,
ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm;
vì điều gì Chúa Cha làm,
thì người Con cũng làm như vậy.
(20) Quả thật, Chúa Cha yêu người Con
và cho người Con thấy mọi điều mình làm,
lại sẽ còn cho người Con thấy
những việc lớn lao hơn nữa,
khiến chính các ông cũng phải kinh ngạc.
(21) Chúa Cha làm cho kẻ chết chỗi dậy
và ban sự sống cho họ thế nào,
thì người Con cũng ban sự sống cho ai tùy ý.
(22) Quả thật, Chúa Cha không xét xử một ai,
nhưng đã ban cho người Con
mọi quyền xét xử,
(23) để ai nấy đều tôn kính người Con
như tôn kính Chúa Cha.
Kẻ nào không tôn kính người Con,
thì cũng không tôn kính Chúa Cha,
Ðấng đã sai người Con.
(24) Thật, tôi bảo thật các ông:
ai nghe lời tôi
và tin vào Ðấng đã sai tôi,
thì có sự sống đời đời
và khỏi bị xét xử,
nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống.
(25) Thật, tôi bảo thật các ông:
giờ đã đến - và chính là lúc này đây
giờ các kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa;
ai nghe thì sẽ được sống.
(26) Quả thật, Chúa Cha có sự sống nơi mình thế nào,
thì cũng ban cho người Con
được có sự sống nơi mình như vậy,
(27) lại ban cho người Con được quyền xét xử,
vì người Con là Con Người.
(28) Các ông chớ ngạc nhiên về điều này,
vì giờ đã đến,
giờ mọi kẻ ở trong mồ
sẽ nghe tiếng người Con
(29) và sẽ ra khỏi đó:
ai đã làm điều lành,
thì sẽ sống lại để được sống;
ai đã làm điều dữ,
thì sẽ sống lại để bị kết án.
(30) Tôi không thể tự ý mình làm gì.
Tôi xét xử theo như tôi được nghe,
và phán quyết của tôi thật công minh,
vì tôi không tìm cách làm theo ý riêng tôi,
nhưng theo ý Ðấng đã sai tôi.
(31) Nếu tôi làm chứng về chính mình,
thì lời chứng của tôi không thật.
(32) Có Ðấng khác làm chứng về tôi
và tôi biết:
lời Người làm chứng về tôi
là lời chứng thật.
(33) Chính các ông đã cử
người đến gặp ông Gioan,
và ông ấy đã làm chứng cho sự thật.
(34) Phần tôi, tôi không cần
lời chứng của một phàm nhân,
nhưng tôi nói ra những điêu này
để các ông được cứu độ.
(35) Ông Gioan là ngọn đèn cháy sáng,
và các ông đã muốn vui hưởng
ánh sáng của ông trong một thời gian.
(36) Nhưng phần tôi, tôi có một lời chứng
lớn hơn lời chứng của ông Gioan:
đó là những việc Chúa Cha đã giao cho tôi
để tôi hoàn thành;
chính những việc tôi làm đó
làm chứng cho tôi rằng
Chúa Cha đã sai tôi.
(37) Chúa Cha, Ðấng đã sai tôi,
chính Người cũng đã làm chứng cho tôi.
Các ông đã không bao giờ nghe tiếng Người,
cũng chẳng bao giờ thấy tôn nhan Người.
(38) Các ông không giữ lời Người ở lại trong lòng,
bởi vì chính các ông không tin
vào Ðấng Người đã sai đến.
(39) Các ông nghiên cứu Kinh Thánh,
vì nghĩ rằng trong đó các ông sẽ tìm được
sự sống đời đời.
Mà chính Kinh Thánh lại làm chứng về tôi.
(40) Các ông không muốn đến cùng tôi
để được sự sống.
(41) Tôi không cần người đời tôn vinh.
(42) Nhưng tôi biết:
các ông không có lòng yêu mến Thiên Chúa.
(43) Tôi đã đến nhân danh Cha tôi,
nhưng các ông không đón nhận.
Nếu có ai khác nhân danh mình mà đến,
thì các ông lại đón nhận.
(44) Các ông tôn vinh lẫn nhau
và không tìm kiếm vinh quang
phát xuất từ Thiên Chúa duy nhất,
thì làm sao các ông có thể tin được?
(45) Các ông đừng tưởng
là tôi sẽ tố cáo các ông với Chúa Cha.
Kẻ tố cáo các ông chính là Môsê,
người mà các ông tin cậy.
(46) Vì nếu các ông tin ông Môsê,
thì hẳn các ông cũng tin tôi,
bởi lẽ ông ấy đã viết về tôi.
(47) Nhưng nếu các ông không tin
các điều ông ấy viết,
thì làm sao tin được lời tôi nói?"
Tin Mừng theo Thánh Gioan Chương 06
3.
Lễ Vượt Qua
Diễn Từ Về Bánh Trường Sinh
Ðức Giêsu hóa bánh ra nhiều
(1) Sau đó, Ðức Giêsu sang bên kia Biển Hồ Galilê, cũng gọi là Biển Hồ Tibêria. (2) Có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người làm cho những kẻ đau ốm. (3) Ðức Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ. (4) Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Dothái.
(5) Ngước mắt lên, Ðức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Philípphê: "Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?" (6) Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi. (7) Ông Philípphê đáp: "Thưa có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút". (8) Một trong các môn đệ, là ông Anrê, anh ông Simon Phêrô, thưa với Người: (9) "Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với bằng ấy người thì thấm vào đâu!" (10) Ðức Giêsu nói: "Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi". Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta ngồi xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. (11) Vậy, Ðức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tùy ý.(12) Khi họ đã no nê rồi, Người bảo các môn đệ: "Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi". (13) Họ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng. (14) Dân chúng thấy dấu lạ Ðức Giêsu làm thì nói: "Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Ðấng phải đến thế gian!" (15)Nhưng Ðức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.
Ðức Giêsu đi trên mặt Biển Hồ mà đến với các môn đệ
(16) Chiều đến, các môn đệ xuống bờ Biển Hồ, (17) rồi xuống thuyền đi về phía Caphácnaum bên kia Biển Hồ. Trời đã tối mà Ðức Giêsu chưa đến với các ông.(18) Biển động, vì gió thổi mạnh. (19) Khi đã chèo được chừng hai mươi lăm hoặc ba mươi chặng đường, các ông thấy Ðức Giêsu đi trên mặt Biển Hồ và đang tới gần thuyền. Các ông hoảng sợ. (20) Nhưng Người bảo các ông: "Chính Thầy đây, đừng sợ!" (21) Các ông muốn rước Người lên thuyền, nhưng ngay lúc đó thuyền đã tới bờ, nơi các ông định đến.
Diễn từ trong hội đường Ca-phác-na-um
(22) Hôm sau, đám đông dân chúng còn đứng ở bờ bên kia Biển Hồ, thấy rằng ở đó đã chỉ có một chiếc thuyền và Ðức Giêsu lại không cùng xuống thuyền đó với các môn đệ, nhưng chỉ có các ông ra đi mà thôi. (23) Tuy nhiên, có những thuyền khác từ Tibêria đến gần nơi dân chúng đã được ăn bánh sau khi Chúa dâng lời tạ ơn. (24) Vậy khi dân chúng thấy Ðức Giêsu cũng như các môn đệ đều không có ở đó, thì họ xuống thuyền đi Caphácnaum tìm kiếm Người. (25) Khi đã gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ, họ nói: "Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?" (26) Ðức Giêsu đáp:
"Thật, tôi bảo thật các ông,
các ông đi tìm tôi
không phải vì các ông đã thấy dấu lạ,
nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê.
(27) Các ông hãy ra công làm việc
không phải vì lương thực mau hư nát,
nhưng để có lương thực thường tồn
đem lại phúc trường sinh,
là thứ lương thực
Con Người sẽ ban cho các ông,
bởi vì chính Con Người là Ðấng
Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận".
(28) Họ liền hỏi Người: "Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?" (29) Ðức Giêsu trả lời: "Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Ðấng Người đã sai đến". (30) Họ lại hỏi: "Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? (31) Tổ tiên chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc, như có lời chép:
Người đã cho họ ăn bánh từ trời".
(32) Ðức Giêsu đáp:
"Thật, tôi bảo thật các ông,
không phải ông Môsê đã cho các ông
ăn bánh bởi trời đâu,
mà chính là Cha tôi
cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực,
(33) vì bánh Thiên Chúa ban
là bánh từ trời xuống,
bánh đem lại sự sống cho thế gian".
(34) Họ liền nói: "Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy". (35) Ðức Giêsu bảo họ:
"Chính tôi là bánh trường sinh.
Ai đến với tôi, không hề phải đói;
ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!
(36) Nhưng tôi đã bảo các ông:
các ông đã thấy tôi mà không tin.
(37) Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi
đều sẽ đến với tôi,
và ai đến với tôi,
tôi sẽ không loại ra ngoài,
(38) vì tôi tự trời mà xuống,
không phải để làm theo ý tôi,
nhưng để làm theo ý Ðấng đã sai tôi.
(39) Mà ý của Ðấng đã sai tôi
là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi,
tôi sẽ không để mất một ai,
nhưng sẽ cho họ sống lại
trong ngày sau hết.
(40) Thật vậy, ý của Cha tôi
là tất cả những ai thấy người Con
và tin vào người Con,
thì được sống muôn đời,
và tôi sẽ cho họ sống lại
trong ngày sau hết".
(41) Người Dothái liền xầm xì phản đối, bởi vì Ðức Giêsu đã nói: "Tôi là bánh từ trời xuống". (42) Họ nói: "Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: "Tôi từ trời xuống?" Ðức Giêsu bảo họ:
"Các ông đừng có xầm xì với nhau!
(44) Chẳng ai đến với tôi được,
nếu Chúa Cha, là Ðấng đã sai tôi,
không lôi kéo người ấy,
và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại
trong ngày sau hết.
(45) Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ:
Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ.
Vậy phàm ai nghe và đón nhận
giáo huấn của Chúa Cha,
thì sẽ đến với tôi.
(46) Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu,
nhưng chỉ có Ðấng từ nơi Thiên Chúa mà đến,
chính Ðấng ấy đã thấy Chúa Cha.
(47) Thật, tôi bảo thật các ông,
ai tin thì được sự sống đời đời.
(48) Tôi là bánh trường sinh.
(49) Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc,
nhưng đã chết.
(50) Còn bánh này là bánh từ trời xuống,
để ai ăn thì khỏi phải chết.
(51) Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống.
Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.
Và bánh tôi sẽ ban tặng,
chính là thịt tôi đây,
để cho thế gian được sống".
(52) Người Dothái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: "Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?" (53) Ðức Giêsu nói với họ:
"Thật, tôi bảo thật các ông:
nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người,
các ông không có sự sống nơi mình.
(54) Ai ăn thịt và uống máu tôi,
thì được sống muôn đời,
và tôi sẽ cho người ấy sống lại
vào ngày sau hết,
(55) vì thịt tôi thật là của ăn,
và máu tôi thật là của uống.
(56) Ai ăn thịt và uống máu tôi,
thì ở lại trong tôi,
và tôi ở lại trong người ấy.
(57) Như Chúa Cha là Ðấng hằng sống đã sai tôi,
và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào,
thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi
mà được sống như vậy.
(58) Ðây là bánh từ trời xuống,
không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn,
và họ đã chết.
Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời".
(59) Ðó là những điều Ðức Giêsu đã nói khi giảng dạy trong hội đường, ở Caphácnaum.
(60) Nghe rồi, nhiều môn đệ của Người liền nói: "Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?" (61) Nhưng Ðức Giêsu tự mình biết được là các môn đệ đang xầm xì về vấn đề ấy, Người bảo các ông: "Ðiều đó, anh em lấy làm chướng , không chấp nhận được ư? (62) Thế thì anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?
(63) Thần khí mới làm cho sống,
chứ xác thịt chẳng có ích gì.
Lời Thầy nói với anh em
là thần khí và là sự sống.
(64) Nhưng trong anh em có những kẻ không tin". Quả thật, ngay từ đầu, Ðức Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người. (65) Người nói tiếp: "Vì thế, Thầy bảo anh em: không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho". (66) Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa.
Ông Phê-rô tuyên xưng lòng tin
(67) Vậy Ðức Giêsu hỏi Nhóm Mười Hai: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?" (68) Ông Simon Phêrô liền đáp: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. (69) Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Ðấng Thánh của Thiên Chúa". (70) Ðức Giêsu đáp: "Chẳng phải Thầy đã chọn anh em là Nhóm Mười Hai sao? Thế mà một người trong anh em lại là quỷ!" (71) Người muốn nói về Giuđa, con ông Simon Ítcariốt; thật thế, chính y, một môn đệ trong Nhóm Mười Hai, sẽ nộp Người.
Chương 07 -
4. Lễ Lều
Ðức Giêsu lên Giê-ru-sa-lem dự lễ và giảng dạy
(1) Sau đó, Ðức Giêsu thường đi lại trong miền Galilê; thật vậy, Người không muốn đi lại trong miền Giuđê, vì người Dothái tìm giết Người.
(2) Lễ Lều của người Dothái gần tới, (3) anh em Ðức Giêsu nói với Người: "Ông bỏ đây mà sang miền Giuđê đi, để cả môn đệ của ông cũng được nhìn thấy những việc ông làm, (4) vì không ai muốn được người ta biết đến mà lại hoạt động âm thầm. Nếu ông làm những việc ấy, thì hãy tỏ mình ra cho thiên hạ biết". (5) Thật thế, anh em Người không tin vào Người. (6) Ðức Giêsu nói với họ: "Thời của tôi chưa đến, nhưng thời của các anh lúc nào cũng thuận tiện. (7) Thế gian không thể ghét các anh, nhưng tôi thì nó ghét, vì tôi làm chứng rằng các việc nó làm thì xấu xa. (8) Các anh cứ lên dự lễ đi; còn tôi, tôi không lên dự lễ này, vì thời của tôi chưa chín muồi". (9) Nói thế rồi, Người ở lại Galilê. (10) Tuy nhiên, khi anh em Người đã lên dự lễ, thì chính Người cũng lên, nhưng không công khai và hầu như bí mật. (11)Người Dothái tìm kiếm Người trong dịp lễ và nói: "Ông ấy đâu rồi?" (12) Dân chúng bàn tán nhiều về Người. Kẻ thì bảo: "Ðó là một người tốt". Kẻ thì nói: "Không, ông ta mê hoặc dân chúng". (13) Nhưng không ai dám công khai nói về Người, vì sợ người Dothái.
(14) Vào giữa kỳ lễ, Ðức Giêsu lên Ðền Thờ và giảng dạy. (15) Người Dothái lấy làm ngạc nhiên. Họ nói: "Ông này không học hành gì, mà sao lại thông thạo chữ nghĩa thế!" (16) Ðức Giêsu trả lời:
"Ðạo lý tôi dạy không phải là của tôi,
nhưng là của Ðấng đã sai tôi.
(17) Ai muốn làm theo ý của Người,
thì sẽ biết rằng
đạo lý ấy là bởi Thiên Chúa
hay do tôi tự mình giảng dạy.
(18) Ai tự mình giảng dạy,
thì tìm vinh quang cho Ðấng đã sai mình,
thì là người chân thật,
và nơi người ấy không có gì là bất chính.
(19) Ông Môsê đã chẳng ban Lề Luật
cho các ông sao?
Thế mà không một ai trong các ông
tuân giữ Lề Luật!
Sao các ông lại tìm cách giết tôi?" (20) Dân chúng đáp: "Ông bị quỷ ám rồi! Có ai tìm giết ông đâu?" (21) Ðức Giêsu trả lời: "Tôi chỉ làm có một việc, mà tất cả các ông đều ngạc nhiên. (22) Ông Môsê đã truyền cho các ông làm phép cắt bì (thực ra, phép ấy đã có từ thời các tổ phụ, chứ không phải từ thời ông Môsê), và các ông làm phép cắt bì cả trong ngày sabát. (23) Vậy, nếu có người có chịu phép cắt bì trong ngày sabát để khỏi lỗi luật Môsê, thì sao các ông lại nổi giận với tôi, vì tôi đã chữa lành toàn thân một người trong ngày sabát? (24) Các ông đừng xét đoán theo bề ngoài nữa, nhưng hãy xét đoán cho công minh".
Dân chúng tranh luận về nguồn gốc của Ðấng Kitô
(25) Bấy giờ có những người ở Giêrusalem nói: "Ông này không phải là người họ đang tìm giết đó sao? (26) Kìa, ông ta ăn nói công khai mà họ chẳng bảo gì cả. Phải chăng các nhà hữu trách đã thực sự nhìn nhận ông là Ðấng Kitô? (27) Ông ấy, chúng ta biết ông xuất thân từ đâu rồi; còn Ðấng Kitô, khi Người đến thì chẳng ai biết Người xuất thân từ đâu cả". (28) Lúc giảng dạy trong Ðền Thờ, Ðức Giêsu nói lớn tiếng rằng:
"Các ông biết tôi ư?
Các ông biết tôi xuất thân từ đâu ư?
Tôi đâu có tự mình mà đến.
Ðấng đã sai tôi là Ðấng chân thật.
Các ông, các ông không biết Người.
(29) Phần tôi, tôi biết Người,
bởi vì tôi từ nơi Người mà đến
và chính Người đã sai tôi".
(30) Bấy giờ họ tìm cách bắt Người, nhưng chẳng có ai tra tay bắt, vì giờ của Người chưa đến.
Ðức Giêsu loan báo Người sắp ra đi
(31) Trong dân chúng, có nhiều kẻ đã tin vào Người, họ nói: "Khi Ðấng Kitô đến, liệu Người có làm nhiều dấu lạ hơn ông này chăng?" (32) Người Pharisêu nghe dân chúng bàn tán với nhau về Người như thế, nên họ và các thượng tế sai vệ binh đi bắt Người. (33) Vậy, Ðức Giêsu bảo họ:
"Tôi còn ở với các ông ít lâu nữa thôi,
rồi tôi đi đến cùng Ðấng đã sai tôi.
(34) Các ông sẽ tìm tôi mà không gặp,
và nơi tôi ở, các ông không thể đến được".
(35) Người Dothái liền nói với nhau: "Ông ấy sắp đi đâu mà chúng ta không gặp được? Phải chăng ông sắp đi gặp kiều bào sống giữa người Hy Lạp, để giảng dạy cho người Hy Lạp? (36) Ông ấy muốn nói gì khi bảo:
'Các ông sẽ tìm tôi mà không gặp,
và nơi tôi ở, các ông không thể đến được'?"
Lời hứa ban nước hằng sống
(37-38) Hôm ấy là ngày bế mạc tuần lễ Lều, và là ngày long trọng nhất. Ðức Giêsu đứng trong Ðền Thờ và lớn tiếng nói rằng:
"Ai khát, hãy đến với tôi,
ai tin vào tôi, hãy đến mà uống!"
Như Kinh Thánh đã nói:
Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy
những dòng nước hằng sống.
(39) Ðức Giêsu muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận. Thật thế, bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Ðức Giêsu chưa được tôn vinh.
Dân chúng lại tranh luận về nguồn gốc của Ðấng Kitô
(40) Trong dân chúng, có những người nghe các lời ấy thì nói: "Ông này thật là vị ngôn sứ". (41) Kẻ khác rằng: "Ông này là Ðấng Kitô". Nhưng có kẻ lại nói: "Ðấng Kitô mà lại xuất thân từ Galilê sao? (42) Nào Kinh Thánh đã chẳng nói: Ðấng Kitô xuất thân từ dòng dõi vua Ðavít và từ Bêlem, làng của vua Ðavít sao?" (43) Vậy, vì Người mà dân chúng đâm ra chia rẽ. (44) Một số trong bọn họ muốn bắt Người, nhưng chẳng có ai tra tay bắt.
(45) Các vệ binh, trở về với các thượng tế và người Pharisêu. Họ liền hỏi chúng: "Tại sao các anh không điệu ông ấy về đây?" (46) Các vệ binh trả lời: "Xưa nay chưa hề đã có ai nói năng như người ấy!" (47) Người Pharisêu liền nói với chúng: "Cả các anh nữa, các anh cũng bị mê hoặc rồi sao? (48) trong hàng thủ lãnh hay trong giới Pharisêu, đã có mặt ai tin vào tên ấy đâu? (49) Còn bọn dân đen này, thứ người không biết Lề Luật, đúng là quân bị nguyền rủa!" (50) Trong nhóm Pharisêu, có một người tên là Nicôđêmô, trước đây đã đến gặp Ðức Giêsu; ông nói với họ: (51) "Lề Luật của chúng ta có cho phép kết án ai, trước khi nghe người ấy và biết người ấy làm gì không?" (52) Họ đáp: "Cả ông nữa, ông cũng là người Galilê sao? Ông cứ nghiên cứu, rồi sẽ thấy: không một ngôn sứ nào xuất thân từ Galilê cả".
(53) Sau đó, ai nấy trở về nhà mình.
Chương 08
Người phụ nữ ngoại tình
(1) Còn Ðức Giêsu thì đến núi Ôliu.
(2) Vừa tảng sáng, Người trở lại Ðền Thờ. Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống giảng dạy họ. (3) Lúc đó, các kinh sư và người Pharisêu dẫn đến trước mặt Ðức Giêsu một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình. Họ để chị ta đứng ở giữa, (4) rồi nói với Người: "Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. (5)Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?" (6) Họ nói thế nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người. Nhưng Ðức Giêsu cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. (7) Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng lên và bảo họ: "Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi". (8) Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. (9) Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Chỉ còn lại một mình Ðức Giêsu, và người phụ nữ thì đứng ở giữa. (10) Người ngẩng lên và nói: "Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?" (11) Người đàn bà đáp: "Thưa ông, không có ai cả". Ðức Giêsu nói: "Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!"
Ðức Giêsu, ánh sáng cho trần gian
(12) Ðức Giêsu lại nói với người Dothái:
"Tôi là ánh sáng thế gian.
Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối,
nhưng sẽ nhận được
ánh sáng đem lại sự sống".
Tranh luận về lời chứng của Ðức Giêsu
liên quan đến bản thân Người
(13) Người Pharisêu nói với Ðức Giêsu: "Ông làm chứng cho chính mình; lời chứng của ông không thật!" (14) Người trả lời:
"Tôi có làm chứng cho chính mình đi nữa,
thì lời chứng của tôi vẫn là chứng thật,
bởi vì tôi biết tôi từ đâu tới và đi đâu.
Còn các ông, các ông không biết
tôi từ đâu tới và đi đâu.
(15) Các ông xét đoán theo kiểu người phàm;
phần tôi, tôi không xét đoán ai cả.
(16) Mà nếu tôi có xét đoán,
thì sự xét đoán của tôi
vẫn đúng sự thật,
vì không phải chỉ có mình tôi,
nhưng có tôi và Ðấng đã sai tôi.
(17) Trong Lề Luật của các ông, có chép rằng
lời chứng của hai người là chứng thật.
(18) Tôi làm chứng cho chính mình,
và Chúa Cha là Ðấng đã sai tôi
cũng làm chứng cho tôi".
(19) Họ liền hỏi người: "Cha ông ở đâu?" Ðức Giêsu đáp:
"Các ông không biết tôi,
cũng chẳng biết Cha tôi.
Nếu các ông biết tôi,
thì hẳn cũng biết Cha tôi".
(20) Người đã nói những lời ấy, khi giảng dạy trong Ðền Thờ, tại nơi đặt thùng tiền dâng cúng. Không có ai bắt Người, vì giờ của Người chưa đến.
(21) Ðức Giêsu lại nói với họ:
"Tôi ra đi, các ông sẽ tìm tôi,
và các ông sẽ mang tội mình mà chết.
Nơi tôi đi, các ông không thể đến được".
(22) Người Dothái mới nói: "Ông ấy sẽ tự tử hay sao mà lại nói" 'Nơi tôi đi, các ông không thể đến được'?" (23) Người bảo họ:
"Các ông bởi hạ giới;
còn tôi, tôi bởi thượng giới.
Các ông thuộc về thế gian này;
còn tôi, tôi không thuộc về thế gian này.
(24) Tôi đã nói với các ông là
các ông sẽ mang tội lỗi mình mà chết.
Thật vậy, nếu các ông không tin là Tôi Hằng Hữu,
các ông sẽ mang tội lỗi minh mà chết".
(25) Họ liền hỏi Người: "Ông là ai?" Ðức Giêsu đáp:
"Hoàn toàn đúng như tôi vừa nói với các ông đó.
(26) Tôi còn có nhiều điều phải nói
và xét đoán về các ông.
Nhưng Ðấng đã sai tôi là Ðấng chân thật;
còn tôi, tôi nói lại cho thế gian
những điều tôi đã nghe Người nói".
(27) Họ không hiểu là Ðức Giêsu nói với họ về Chúa Cha. (28) Người bảo họ:
"Khi các ông giương cao Con Người lên,
bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu,
và biết tôi không tự mình làm bất cứ điều gì,
nhưng Chúa Cha đã dạy tôi thế nào,
thì tôi nói như vậy.
(29) Ðấng đã sai tôi vẫn ở với tôi;
Người không để tôi cô độc,
vì tôi hằng làm những điều đẹp ý Người".
(30) Khi Ðức Giêsu nói thế, thì có nhiều kẻ tin vào Người.
Ðức Giêsu và ông Áp-ra-ham
(31) Vậy, Ðức Giêsu nói với
những người Dothái đã tin Người:
"Nếu các ông ở lại trong lời của tôi,
thì các ông thật là môn đệ tôi;
(32) các ông sẽ biết sự thật,
và sự thật sẽ giải phóng các ông".
(33) Họ đáp: "Chúng tôi là dòng dõi ông Ápraham. Chúng tôi không hề làm nô lệ cho ai bao giờ. Làm sao ông lại nói: các ông sẽ được tự do?" (34) Ðức Giêsu trả lời:
"Thật, tôi bảo thật các ông:
hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội.
(35) Vậy, nếu người Con có giải phóng các ông,
thì các ông mới thực sự là những người tự do.
(37) Tôi biết các ông là dòng dõi ông Ápraham,
nhưng các ông tìm cách giết tôi,
vì lời tôi không thấm vào lòng các ông.
(38) Phần tôi, tôi nói những điều đã thấy nơi Cha tôi;
còn các ông, các ông làm
những gì đã nghe cha các ông nói".
(39) Họ đáp: "Cha chúng tôi là ông Ápraham". Ðức Giêsu nói:
"Giả như các ông là con cái ông Ápraham,
hẳn các ông phải làm
những việc ông Ápraham đã làm.
(40) Thế mà bây giờ các ông lại tìm giết tôi,
là người đã nói cho các ông
sự thật mà tôi đã nghe biết từ Thiên Chúa.
Ðiều đó, ông Ápraham đã không làm.
(41) Còn các ông, các ông làm
những việc cha các ông làm".
Họ mới nói: "Chúng tôi đâu phải là con hoang. chúng tôi chỉ có một Cha: đó là Thiên Chúa!" (42) Ðức Giêsu bảo họ:
"Giả như Thiên Chúa là Cha các ông,
hẳn các ông phải yêu mến tôi,
vì tôi phát xuất từ Thiên Chúa
và bởi Thiên Chúa mà đến.
Thật thế, tôi không tự mình mà đến,
nhưng chính Người đã sai tôi.
(43) Tại sao các ông không hiểu lối nói của tôi?
Là vì các ông không thể nghe lời tôi nói.
(44) Cha các ông là ma quỷ,
và các ông muốn làm những gì cha các ông ham thích.
Ngay từ đầu, nó đã không đứng về phía sự thật,
vì sự thật không ở trong nó.
Khi nó nói dối là nó theo bản tính của nó,
bởi vì nó là kẻ nói dối
và là cha sự gian dối.
(45) Còn tôi, chính vì tôi nói sự thật,
nên các ông không tin tôi.
(46) Ai trong các ông chứng minh được
là tôi có tội?
Nếu tôi nói sự thật,
sao các ông lại không tin tôi?
(47) Ai thuộc về Thiên Chúa,
thì nghe lời Thiên Chúa nói;
còn các ông, các ông không chịu nghe,
vì các ông không thuộc về Thiên Chúa".
(48) Người Dothái đáp: "Chúng tôi bảo ông là người Samari và người bị quỷ ám thì chẳng đúng lắm sao? (49) Ðức Giêsu trả lời:
"Tôi không bị quỷ ám.
Nhưng tôi tôn kính Cha tôi;
còn các ông, các ông lại làm nhục tôi.
(50) Phần tôi, tôi không tìm vinh quang cho mình.
Có Ðấng tìm cho tôi và xét xử cho tôi.
(51) Thật, tôi bảo thật các ông:
ai tuân giữ lời tôi,
thì sẽ không bao giờ phải chết".
(52) Người Dothái liền nói: "Bây giờ, chúng tôi biết chắc là ông bị quỷ ám. Ông Ápraham đã chết, các ngôn sứ cũng vậy; thế mà ông lại nói:
"Ai tuân giữ lời tôi,
thì sẽ không bao giờ phải chết".
(53) Chẳng lẽ ông lại cao trọng hơn cha chúng tôi là ông Ápraham sao? Người đã chết, các ngôn sứ cũng đã chết. Ông tự coi mình là ai?" (54) Ðức Giêsu đáp:
"Nếu tôi tôn vinh chính mình,
vinh quang của tôi chẳng là gì cả.
Ðấng tôn vinh tôi chính là Cha tôi,
Ðấng mà các ông gọi là Thiên Chúa của các ông.
(55) Các ông không biết Người;
còn tôi, tôi biết Người.
Nếu tôi nói là tôi không biết Người,
thì tôi cũng là kẻ nói dối như các ông.
Nhưng tôi biết Người và giữ lời Người.
(56) Ông Ápraham là cha các ông
đã hớn hở vui mừng
vì hy vọng được thấy ngày của tôi.
Ông đã thấy và đã mừng rỡ".
(57) Người Dothái nói: "Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã thấy ông Ápraham!" (58) Ðức Giêsu đáp:
"Thật, tôi bảo thật các ông:
trước khi có ông Ápraham,
thì tôi, Tôi Hằng Hữu!"
(59) Họ liền lượm đá để ném Người. Nhưng Ðức Giêsu lánh đi và ra khỏi Ðền Thờ.
Chương 09
Ðức Giêsu chữa một người mù từ thuở mới sinh
(1) Ði ngang qua, Ðức Giêsu nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh. (2) Các môn đệ hỏi Người: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?" (3) Ðức Giêsu trả lời: "Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng chuyện đó xảy ra là để các việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.
(4) Chúng ta phải làm
những việc của Ðấng đã sai Thầy,
khi trời còn sáng;
đêm đến, không ai có thể làm việc được.
(5) Bao lâu Thầy còn ở thế gian,
Thầy là ánh sáng thế gian".
(6) Nói xong, Ðức Giêsu nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, (7) rồi bảo anh ta: "Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa (Silôác có nghĩa là: người được sai phái). Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được.
(8) Các người láng giềng và những kẻ trước kia thường thấy anh ta ăn xin mới nói: "Hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao?" (9) Có người nói: "Chính hắn đó!" Kẻ khác lại nói rằng: "Không phải đâu! Nhưng là một đứa nào giống hắn đó thôi!" Còn anh ta thì quả quyết: "Chính tôi đây!" (10) Người ta liền hỏi anh: "Vậy, làm sao mắt anh lại mở ra được như thế?" (11) Anh ta trả lời: "Người tên là Giêsu đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo: 'Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa'. Tôi đã đi, và sau khi rửa tôi nhìn thấy được". (12) Họ lại hỏi anh: "Ông ấy đâu?" Anh ta đáp: "Tôi không biết".
(13) Họ dẫn kẻ trước đây bị mù đến với những người Pharisêu. (14) Nhưng ngày Ðức Giêsu trộn chút bùn và làm mắt anh mở ra lại là ngày sabát. (15) Vậy, các người Pharisêu hỏi thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy được. Anh trả lời: "Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy". (16) Trong nhóm Pharisêu, người thì nói: "Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sabát"; kẻ thì bảo: "Một người tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?" Thế là họ đâm ra chia rẽ. (17) Họ lại hỏi người mù: "Còn anh, anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh?" Anh đáp: "Người là một vị ngôn sứ!"
(18) Người Dothái không tin là trước đây anh bị mù mà nay nhìn thấy được, nên đã gọi cha mẹ anh ta đến. (19) Họ hỏi: "Anh này có phải là con ông bà không? Ông bà nói là anh bị mù từ khi mới sinh, vậy sao bây giờ anh lại nhìn thấy được?" (20) Cha mẹ anh đáp: "Chúng tôi biết nó là con chúng tôi, nó bị mù từ khi mới sinh.(21) Còn bây giờ làm sao nó thấy được, chúng tôi không biết, hoặc có ai đã mở mắt cho nó, chúng tôi cũng chẳng hay. Xin các ông cứ hỏi nó; nó đã lớn khôn rồi, tự nó nói về mình được." (22) Cha mẹ anh nói thế vì sợ người Dothái. Thật vậy, người Dothái đã đồng lòng trục xuất khỏi hội đường kẻ nào dám tuyên xưng Ðức Giêsu là Ðấng Kitô. (23) Vì thế, cha mẹ anh mới nói: "Nó đã khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó".
(24) Một lần nữa, họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo: "Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi". (25) Anh ta đáp: "Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều: Trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được!" (26) Họ mới nói với anh: "Ông ấy đã làm gì cho anh? Ông ấy đã mở mắt cho anh thế nào?" (27) Anh trả lời: "Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông vẫn không chịu nghe. Tại sao các ông còn muốn nghe lại chuyện đó nữa? Hay các ông cũng muốn làm môn đệ ông ấy chăng?" (28) Họ liền mắng nhiếc anh: "Có mày mới là môn đệ của ông ấy; còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông Môsê. (29) Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Môsê; nhưng chúng ta không biết ông ấy ở đâu mà đến". (30) Anh đáp: "Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt cho tôi! (31) Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. (32) Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. (33) Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì". (34) Họ đối lại: "Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?" Rồi họ trục xuất anh.
(35) Ðức Giêsu nghe nói họ đã trục xuất anh, và khi gặp lại anh, Người hỏi: "Anh có tin vào Con Người không?" (36) Anh đáp: "Thưa Ngài, Ðấng ấy là ai để tôi tin?" (37) Ðức Giêsu trả lời: "Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây". (38) Anh nói: "Thưa Ngài, tôi tin". Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người.
(39) Ðức Giêsu nói:
"Tôi đến thế gian này
chính là để xét xử:
cho người không xem thấy được thấy,
và kẻ xem thấy lại nên đui mù!"
(40) Những người Pharisêu đang đứng ở đó với Ðức Giêsu nghe vậy, liền lên tiếng: "Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?" (41) Ðức Giêsu bảo họ:
"Nếu các ông đui mù,
thì các ông đã chẳng có tội.
Nhưng giờ đây các ông nói rằng: 'Chúng tôi thấy',
nên tội các ông vẫn còn!"
Chương 10
Vị Mục Tử nhân lành
(1) "Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. (2) Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. (3) Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. (4) Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. (5) Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ". (6)Ðức Giêsu kể cho họ nghe dụ ngôn đó. Nhưng họ không hiểu những điều người nói với họ.
(7) Vậy, Ðức Giêsu lại nói:
"Thật, tôi bảo thật các ông:
Tôi là cửa cho chiên ra vào.
(8) Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp;
nhưng chiên đã không theo họ.
(9) Tôi là cửa
Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu.
Người ấy sẽ ra vào
và gặp được đồng cỏ.
(10) Kẻ trộm chỉ đến
để ăn trộm, giết hại và phá hủy.
Phần tôi, tôi đến
để cho chiên được sống
và sống dồi dào.
(11) Tôi chính là Mục Tử nhân lành.
Mục Tử nhân lành
hy sinh mạng sống mình cho chiên.
(12) Người làm thuê, vì không phải là mục tử,
và vì chiên không thuộc về anh,
nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy.
Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn,
(13) vì anh ta là kẻ làm thuê
và không thiết gì đến chiên.
(14) Tôi chính là Mục Tử nhân lành.
Tôi biết các chiên của tôi
và chiên của tôi biết tôi,
(15) như Chúa Cha biết tôi
và tôi biết Chúa Cha,
và tôi hy sinh mạng sống mình cho chiên.
(16) Tôi còn có những chiên khác
không thuộc ràn này.
Tôi cũng phải đưa chúng về.
Chúng sẽ nghe tiếng tôi.
Và sẽ chỉ có một đoàn chiên
và một mục tử.
(17) Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi,
là vì tôi hy sinh mạng sống mình
để rồi lấy lại.
(18) Mạng sống của tôi, không ai lấy được,
nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình.
Tôi có quyền hy sinh
và có quyền lấy lại mạng sống ấy.
Ðó là mệnh lệnh của Cha tôi
mà tôi đã nhận được.
(19) Người Dothái lại chia rẽ nhau vì những lời đó. (20) Nhiều người trong nhóm họ nói: "Ông ấy bị quỷ ám và điên khùng rồi! Nghe ông ấy làm gì?" (21) Kẻ khác bảo: "Người bị quỷ ám đâu có nói được như vậy! Quỷ có thể mở mắt cho người mù được sao?"
5. Lễ Cung Hiến Ðền Thờ
Ðức Giêsu xưng mình là Con Thiên Chúa
(22) Khi ấy, ở Giêrusalem, người ta đang mừng lễ Cung Hiến Ðền Thờ. Bấy giờ là mùa đông. (23) Ðức Giêsu đi đi lại lại trong Ðền Thờ, tại hành lang Salômon. (24)Người Dothái vây quanh Ðức Giêsu và nói: "Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ? nếu ông là Ðấng Kitô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết". (25) Ðức Giêsu đáp:
"Tôi đã nói với các ông rồi
mà các ông không tin.
Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi,
những việc đó làm chứng cho tôi.
(26) Nhưng các ông không tin,
vì các ông không thuộc về đoàn chiên của tôi.
(27) Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi;
tôi biết chúng và chúng theo tôi.
(28) Tôi ban cho chúng sự sống đời đời;
không bao giờ chúng phải diệt vong
và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi.
(29) Cha tôi, Ðấng đã ban chúng cho tôi,
thì lớn hơn tất cả,
và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha.
(30) Tôi và Chúa Cha là một".
(31) Người Dothái lại lấy đá để ném Ðức Giêsu. (32) Người bảo họ: "Tôi đã cho các ông thấy nhiều việc tốt đẹp Chúa Cha đã giao cho tôi làm; vì việc nào mà các ông ném đá tôi?" (33) người Dothái đáp: "Chúng tôi ném đá ông, không phải vì một việc tốt đẹp, nhưng vì một lời nói phạm thượng: ông là người phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa". (34) Ðức Giêsu bảo họ:
"Trong Lề Luật các ông,
đã chẳng có chép lời này sao:
'Ta đã phán: các người là những bậc thần thánh'?
(35) Nếu Lề Luật gọi những kẻ được Thiên Chúa ngỏ lời
là những bậc thần thánh,
mà lời Kinh Thánh không thể bị hủy bỏ,
(36) thì tôi là người Chúa Cha đã thánh hiến
và sai đến thế gian,
làm sao các ông lại bảo tôi:
'Ông nói phạm thượng!'
vì tôi đã nói: 'Tôi là Con Thiên Chúa'?
(37) Nếu tôi không làm các việc của Cha tôi,
thì các ông đừng tin tôi.
(38) Còn nếu tôi làm các việc đó,
thì dù các ông không tin tôi,
ít ra cũng hãy tin vào các việc đó.
Như vậy, các ông sẽ biết
và ngày càng biết thêm rằng
Chúa Cha ở trong tôi
và tôi ở trong Chúa Cha".
(39) Bấy giờ họ lại tìm cách bắt Người, nhưng Người đã thoát khỏi tay họ.
Ðức Giêsu rút lui sang bên kia sông Gio-đan
(40) Ðức Giêsu lại ra đi, sang bên kia sông Giođan, đến chỗ trước kia ông Gioan đã làm phép rửa, và Người ở lại đó. (41) Nhiều người đến gặp Ðức Giêsu. Họ bảo nhau: "Ông Gioan đã không làm một dấu lạ nào cả, nhưng mọi điều ông ấy nói về người này đều đúng". (42) Ở đó, nhiều người đã tin vào Ðức Giêsu
Chương 11 -
Anh La-da-rô sống lại
(1) Có một người bị đau nặng, tên là Ladarô, quê ở Bêtania, làng của hai chị em cô Mácta và Maria. (2) Cô Maria là người sau này sẽ xức dầu thơm cho Chúa, và lấy tóc lau chân Người. Anh Ladarô, người bị đau nặng, là em của cô. (3) Hai cô cho người đến nói với Ðức Giêsu: "Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng". (4) Nghe vậy, Ðức Giêsu bảo: "Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh".
(5) Ðức Giêsu quý mến cô Mácta, cùng hai người em là cô Maria và anh Ladarô.
(6) Tuy nhiên, sau khi được tin anh Ladarô lâm bệnh, Người còn lưu lại thêm hai ngày tại nơi đang ở. (7) Rồi sau đó, Người nói với các môn đệ: "Nào chúng ta cùng trở lại miền Giuđê!" (8) Các môn đệ nói: "Thưa Thầy, mới đây người Dothái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại còn đến đó sao?" (9) Ðức Giêsu trả lời:
"Ban ngày chẳng có mười hai giờ đó sao?
Ai đi ban ngày thì không vấp ngã,
vì thấy ánh sáng của thế gian này.
(10) Còn ai đi ban đêm thì vấp ngã
vì không có ánh sáng nơi mình!"
(11) Nói những lời này xong, Người bảo họ: "Ladarô, bạn của chúng ta, đang yên giấc; tuy vậy, Thầy đi đánh thức anh ấy đây". (12) Các môn đệ nói với Người: "Thưa Thầy, nếu anh ấy yên giấc được, anh ấy sẽ khỏe lại". (13) Ðức Giêsu nói về cái chết của anh Ladarô, còn họ tưởng Người nói về giấc ngủ thường. (14) Bấy giờ Người mới nói rõ: "Ladarô đã chết. (15) Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin. Thôi, nào chúng ta đến với anh ấy". (16) Ông Tôma, gọi là Ðiđymô, nói với các bạn đồng môn: "Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy!"
(17) Khi đến nơi, Ðức Giêsu thấy anh Ladarô đã chôn trong mồ được bốn ngày rồi. (18) Bêtania cách Giêrusalem không đầy ba cây số. (19) Nhiều người Dothái đến chia buồn với hai cô Mácta và Maria, vì em các cô mới qua đời. (20) Vừa được tin Ðức Giêsu đến, cô Mácta liền ra đón Người. Còn cô Maria thì ngồi ở nhà.(21) Cô Mácta nói với Ðức Giêsu: "Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. (22) Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy". (23) Ðức Giêsu nói: "Em chị sẽ sống lại!" (24) Cô Mácta thưa: "Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết".(25) Ðức Giêsu liền phán:
"Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống.
Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết,
cũng sẽ được sống.
(26) Ai sống và tin vào Thầy,
sẽ không bao giờ phải chết.
Chị có tin thế không?"
(27) Cô Mácta đáp: "Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa, Ðấng phải đến thế gian".
(28) Nói xong, cô đi gọi em là Maria, và nói nhỏ: "Thầy đến rồi, Thầy gọi em đấy!" (29) Nghe vậy, cô Maria vội vàng đứng lên và đến với Ðức Giêsu. (30) Lúc đó, Người chưa vào làng, nhưng vẫn còn ở chỗ cô Mácta đã ra đón Người. (31) Những người Dothái đang ở trong nhà với cô Maria để chia buồn, thấy cô vội vã đứng dậy đi ra, liền đi theo, tưởng rằng cô ra mộ khóc em.
(32) Khi đến gần Ðức Giêsu, cô Maria vừa thấy Người, liền phủ phục dưới chân và nói: "Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết". (33) Thấy cô khóc, và những người Dothái đi với cô cũng khóc, Ðức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến. (34) Người hỏi: "Các người để xác anh ấy ở đâu?" Họ trả lời: "Thưa Thầy, mời Thầy đến mà xem". (35) Ðức Giêsu liền khóc. (36) Người Dothái mới nói: "Kìa xem! Ông ta thương anh Ladarô biết mấy!" (37) Có vài người trong nhóm họ nói: "Ông ta đã mở mắt cho người mù, lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết được ư?" (38) Ðức Giêsu lại thổn thức trong lòng. Người đi tới mộ. Ngôi mộ đó là một cái hang có phiến đá đậy lại. (39) Ðức Giêsu nói: "Ðem phiến đá này đi". Cô Mácta là chị người chết liền nói: "Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày". (40) Ðức Giêsu bảo: "Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?" (41) Rồi người ta đem phiến đá đi. Ðức Giêsu ngước mắt lên và nói:
"Lạy Cha, con cảm tạ Cha,
vì Cha đã nhậm lời con.
(42) Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con,
nhưng vì dân chúng đứng quanh đây,
nên con đã nói
để họ tin là Cha đã sai con".
(43) Nói xong, Người kêu lớn tiếng: "Anh Ladarô, hãy ra khỏi mồ!" (44) Người chết liền bước ra, chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn liệm. Ðức Giêsu bảo: "Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi".
Các thủ lãnh Dothái quyết định giết Ðức Giêsu
(45) Trong số những người Dothái đến thăm cô Maria và được chứng kiến việc Ðức Giêsu làm, có kẻ đã tin vào Người. (46) Nhưng lại có những người đi gặp nhóm Pharisêu và kể cho họ những gì Ðức Giêsu đã làm. (47) Vậy các thượng tế và các người Pharisêu triệu tập Thượng hội Ðồng và nói: "Chúng ta phải làm gì đây? Người này làm nhiều dấu lạ. (48) Nếu chúng ta cứ để ông ấy tiếp tục, mọi người sẽ tin vào ông ấy, rồi người Rôma sẽ đến phá hủy cả nơi thánh của ta lẫn dân tộc ta".(49) Một người trong Thượng Hội Ðồng tên là Caipha, làm thượng tế năm ấy, nói rằng: "Các ông không hiểu gì cả, (50) các ông cũng chẳng nghĩ đến điều lợi cho các ông là: thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt". (51) Ðiều đó, ông không tự mình nói ra, nhưng vì ông là thượng tế năm ấy, nên đã nói tiên tri là Ðức Giêsu sắp phải chết thay cho dân, (52) và không chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối. (53)Từ ngày đó, họ quyết định giết Ðức Giêsu. (54) Vậy Ðức Giêsu không đi lại công khai giữa người Dothái nữa; nhưng từ nơi ấy, Người đến một vùng gần hoang địa, tới một thành gọi là Épraim. Người ở lại đó với các môn đệ.
6. Sứ Vụ Công Khai Của Ðức Giêsu Kết Thúc
Lễ Vượt Qua gần đến
(55) Lễ Vuợt Qua của người Dothái đã gần. Từ miền quê, nhiều người lên Giêrusalem trước lễ Vượt Qua để thanh tẩy mình. (56) Họ tìm Ðức Giêsu và đứng trong Ðền Thờ bàn tán với nhau: "Các ông có nghĩ rằng ông ấy sẽ không lên dự lễ chăng?" (57) Còn các thượng tế và người Pharisêu thì ra lệnh: ai biết được ông ấy ở đâu thì phải báo cho họ đến bắt.
Chương 12 -
Xức dầu thơm tại Bê-ta-ni-a
(1) Sáu ngày trước lễ Vượt Qua, Ðức Giêsu đến làng Bêtania, nơi anh Ladarô ở. Anh này đã được Người cho sống lại từ cõi chết. (2) Ở đó, người ta dọn bữa ăn tối thết đãi Ðức Giêsu; cô Mácta lo hầu bàn, còn anh Ladarô là một trong những kẻ cùng dự tiệc với Người. (3) Cô Maria lấy một cân dầu thơm cam tùng nguyên chất và quý giá xức chân Ðức Giêsu, rồi lấy tóc mà lau. Cả nhà sực mùi thơm. (4) Một trong các môn đệ của Ðức Giêsu la Giuđa Ítcariốt, kẻ sẽ nộp Người, liền nói:(5) "Sao lại không bán dầu thơm đó lấy ba trăm đồng bạc mà cho người nghèo?" (6) Y nói thế, không phải vì lo cho người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp: y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung. (7) Ðức Giêsu nói: "Hãy để cô ấy yên hầu cô ấy giữ lại dầu thơm này cho ngày mai táng Thầy. (8)Thật vậy, người nghèo thì anh em luôn có bên cạnh; còn Thầy, anh em không có mãi đâu".
(9) Một đám đông người Dothái biết Ðức Giêsu đang ở đó. Họ tuôn đến, không phải chỉ vì Ðức Giêsu, nhưng còn để nhìn thấy anh Ladarô, kẻ đã được Người cho sống lại từ cõi chết. (10) các thượng tế mới quyết định giết cả anh Ladarô nữa, (11) vì tại anh mà nhiều người Dothái đã bỏ họ và tin vào Ðức Giêsu.
Ðức Giêsu vào Giê-ru-sa-lem với tư cách là Ðấng Mê-si-a
(12) Hôm sau, dân chúng lũ lượt tuôn đến mừng lễ. Thoạt nghe tin Ðức Giêsu tới Giêrusalem, (13) họ cầm nhành lá thiên tuế ra đón Người và reo hò:
Hoan hô! Hoan hô!
Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Chúa!
Chúc tụng vua Ítraen!
(14) Ðức Giêsu gặp một con lừa nhỏ, liền cỡi lên như có lời chép:
(15) Hỡi thiếu nữ Xion, đừng sợ!
Này Ðức Vua của ngươi ngự đến,
ngồi trên lưng lừa con.
(16) Lúc đầu, các môn đệ không hiểu những điều ấy. Nhưng sau khi Ðức Giêsu được tôn vinh, các ông mới nhớ lại là Kinh Thánh đã chép những điều đó về Người, và dân chúng đã làm cho Người đúng y như vậy.
(17) Vậy, đám đông dân chúng làm chứng cho Ðức Giêsu, họ là những người đã có mặt, khi Ðức Giêsu gọi anh Ladarô ra khỏi mồ và làm cho anh chỗi dậy từ cõi chết. (18) Sỡ dĩ dân chúng đi đón Người, là vì họ nghe biết Người đã làm dấu lạ đó. (19) Bấy giờ người Pharisêu bảo nhau: "Các ông thấy chưa: các ông chẳng làm nên trò trống gì cả! Kìa thiên hạ theo ông ấy hết!"
Ðức Giêsu loan báo
Người sẽ được tôn vinh nhờ cái chết của Người
(20) Trong số những người lên Giêrusalem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy Lạp. (21) Họ đến gặp ông Philípphê, người Bếtxaiđa, miền Galilê, và xin rằng: "Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu". (22) Ông Philipphê đi nói với ông Anrê. Ông Anrê cùng với ông Philipphê đến thưa với Ðức Giêsu. (23) Ðức Giêsu trả lời:
"Ðã đến giờ Con Người được tôn vinh!
(24) Thật, Thầy bảo thật anh em,
nếu hạt lúa gieo vào lòng đất
không chết đi,
thì nó vẫn trơ trọi một mình;
còn nếu chết đi,
nó mới sinh được nhiều hạt khác.
(25) Ai yêu quý mạng sống mình,
thì sẽ mất;
còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này,
thì sẽ giữ lại được
cho sự sống đời đời.
(26) Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy;
và Thầy ở đâu,
kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó.
Ai phục vụ Thầy,
Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy".
(27) "Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến!
Thầy biết nói gì đây?
Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này,
nhưng chính vì giờ này mà con đã đến.
(28) Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha".
Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống:
"Ta đã tôn vinh Danh Ta
Ta sẽ còn tôn vinh nữa!"
(29) Dân chúng đứng ở đó nghe vậy liền nói: " Ðó là tiếng sấm!" Người khác lại bảo: "Tiếng một thiên thần nói với ông ta đấy!" (30) Ðức Giêsu đáp: "Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người.
(31) Giờ đây đang diễn ra
cuộc phán xét thế gian này.
Giờ đây thủ lãnh thế gian này
sắp bị tống ra ngoài!
(32) Phần tôi, một khi được giương cao
lên khỏi mặt đất,
tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi".
(33) Ðức Giêsu nói thế để ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào.
(34) Vậy, dân chúng thưa Người: "Chúng tôi đã học biết trong sách Luật rằng: Ðấng Kitô phải trường tồn mãi mãi. Thế sao ông lại nói: 'Con Người phải được giương cao'? Con Người đó là ai?" (35) Ðức Giêsu bảo họ:
"Ánh sáng còn ở giữa các ông
ít lâu nữa thôi.
Các ông hãy bước đi,
bao lâu các ông còn có ánh sáng,
kẻo bóng tối bắt chợt các ông.
Ai bước đi trong bóng tối,
thì không biết mình đi đâu.
(36) Bao lâu các ông còn có ánh sáng,
hãy tin vào ánh sáng,
để trở nên con cái ánh sáng".
Sau khi nói thế, Ðức Giêsu rời nơi đó và lánh đi không cho họ thấy.
Kết luận: Người Do-thái cứng lòng không chịu tin
(37) Người đã làm ngần ấy dấu lạ trước mặt họ, thế mà họ vẫn không tin vào Người. (38) Như vậy là ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia:
Lạy Ðức Chúa, ai đã tin lời chúng tôi rao giảng?
Và quyền lực của Ðức Chúa đã được tỏ cho ai?
(39) Sở dĩ họ không thể tin là vì ngôn sứ Isaia còn nói:
(40) Thiên Chúa đã làm cho mắt chúng ra đui mù
và lòng chúng ra chai đá,
kẻo mắt chúng thấy
và lòng chúng hiểu được mà hoán cải,
rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành!
(41) Ngôn sứ Isaia nói những lời đó, vì đã thấy vinh quang của Ðức Giêsu, và ông đã nói về Người.
(42) Tuy nhiên, ngay cả trong giới lãnh đạo Dothái cũng có nhiều người đã tin vào Ðức Giêsu. Nhưng, vì sợ nhóm Pharisêu, họ không dám xưng ra, kẻo bị khai trừ khỏi hội đường. (43) Thật thế, họ chuộng vinh quang của người phàm hơn là vinh quang của Thiên Chúa. (44) Ðức Giêsu lớn tiếng nói rằng:
"Ai tin vào tôi,
thì không phải là tin vào tôi,
nhưng là tin vào Ðấng đã sai tôi;
(45) ai thấy tôi là thấy Ðấng đã sai tôi.
(46) Tôi là ánh sáng đến thế gian,
để bất cứ ai tin vào tôi,
thì không ở lại trong bóng tối.
(47) Ai nghe những lời tôi nói
mà không tuân giữ,
thì không phải chính tôi xét xử người ấy,
vì tôi đến không phải để xét xử thế gian,
nhưng để cứu thế gian.
(48) Ai từ chối tôi và không đón nhận lời tôi,
thì có quan tòa xét xử người ấy:
chính lời tôi đã nói
sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết.
(49) Thật vậy, không phải tôi tự mình nói ra,
nhưng là chính Chúa Cha, Ðấng đã sai tôi,
truyền lệnh cho tôi phải nói gì, tuyên bố gì.
(50) Và tôi biết:
mệnh lệnh của Người là sự sống đời đời.
Vậy, những gì tôi nói,
thì tôi nói
đúng như Chúa Cha đã nói với tôi"
Chương 13 -
III. Giờ Của Ðức Giêsu
Lễ Vượt Qua Của Chiên Thiên Chúa
1. Bữa Ăn Cuối Cùng Của Ðức Giêsu Và Các Môn Ðệ
Ðức Giêsu rửa chân cho các môn đệ
(1) Trước lễ Vượt Qua, Ðức Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng.
(2) Trong bữa ăn tối, ma quỷ đã gieo vào lòng Giuđa, con ông Simon Ítcariốt, ý định nộp Ðức Giêsu. (3) Ðức Giêsu biết rằng: Chúa Cha đã giao phó mọi sự trong tay Người, Người bởi Thiên Chúa mà đến, và sắp trở về cùng Thiên Chúa, (4) nên bấy giờ Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. (5)Rồi Ðức Giêsu đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau.
(6) Vậy, Người đến chỗ ông Simon Phêrô, ông liền thưa với Người: "Thưa Thầy! Thầy mà lại rửa chân cho con sao?" (7) Ðức Giêsu trả lời: "Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu". (8) Ông Phêrô lại thưa: "Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu!" Ðức Giêsu đáp: "Nếu Thầy không rửa chân cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy". (9) Ông Simon Phêrô liền thưa: "Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và đầu con nữa". (10) Ðức Giêsu bảo ông: "Ai đã tắm rồi, thì không cần phải rửa nữa; toàn thân người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu!" (11) Thật vậy, Người biết ai sẽ nộp Người, nên mới nói: "Không phải tất cả anh em đều sạch".
(12) Khi rửa chân cho các môn đệ xong, Ðức Giêsu mặc áo vào, về chỗ và nói: "Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? (13) Anh em gọi Thầy là 'Thầy', là 'Chúa', điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. (14) Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. (15) Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.
(16) Thật, Thầy bảo thật anh em:
tôi tớ không lớn hơn chủ nhà,
kẻ được sai đi không lớn người sai đi.
(17) Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì phúc cho anh em! (18) Thầy không nói về tất cả anh em đâu. Chính thầy biết những người Thầy đã chọn, nhưng phải ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây:
Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh
lại giơ gót đạp con.
(19) Thầy nói với anh em điều đó
ngay từ lúc này,
trước khi sự việc xảy ra,
để khi sự việc xảy ra,
anh em tin là Thầy Hằng Hữu.
(20) Thật, Thầy bảo thật anh em:
ai đón tiếp người Thầy sai đến
là đón tiếp Thầy,
và ai đón tiếp Thầy
là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy".
Ðức Giêsu loan báo Giuđa sẽ phản bội
(21) Ðức Giêsu nói thế rồi, tâm thần xao xuyến. Người tuyên bố:
"Thật, Thầy bảo thật anh em:
có một người trong anh em sẽ nộp Thầy".
(22) Các môn đệ nhìn nhau, phân vân không biết Người nói về ai. (23) Trong số các môn đệ, có một người được Ðức Giêsu thương mến. Ông đang dùng bữa, đầu tựa vào lòng Ðức Giêsu. (24) Ông Simon Phêrô làm hiệu cho ông ấy và bảo: "Hỏi xem Thầy muốn nói về ai?" (25) Ông này liền nghiêng mình vào ngực Ðức Giêsu và hỏi: "Lạy Thầy, ai vậy?" (26) Ðức Giêsu trả lời: "Thầy chấm bánh đưa cho ai, thì chính là kẻ ấy". Rồi Người chấm một miếng bánh, trao cho Giuđa, con ông Simon Ítcariốt. (27) Y vừa ăn xong miếng bánh, Xatan liền nhập vào y. Ðức Giêsu bảo y: "Anh làm gì thì làm mau đi!" (28) Nhưng trong số các người đang dùng bữa, không ai hiểu tại sao Người nói với y như thế. (29) Vì Giuđa giữ túi tiền, nên có vài người tưởng rằng Ðức Giêsu nói với y: "Hãy mua những món cần dùng trong dịp lễ", hoặc bảo y bố thí cho người nghèo. (30) Sau khi ăn miếng bánh, Giuđa liền đi ra. Lúc đó, trời đã tối.
Những lời cáo biệt
(31) Khi Giuđa đi rồi, Ðức Giêsu nói:
"Giờ đây, Con Người được tôn vinh,
và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người,
(32) Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người,
thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người
nơi chính mình,
và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người.
(33) Hỡi anh em
là những người con bé nhỏ của Thầy,
Thầy còn ở với anh em
một ít lâu nữa thôi.
Anh em sẽ tìm kiếm Thầy;
nhưng như Thầy đã nói với người Dothái:
'Nơi tôi đi, các người không thể đến được',
bấy giờ, Thầy cũng nói với anh em như vậy.
(34) Thầy ban cho anh em một điều răn mới
là anh em hãy yêu thương nhau
như Thầy đã yêu thương anh em.
(35) Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết
anh em là môn đệ của Thầy:
là anh em có lòng yêu thương nhau".
(36) Ông Simon Phêrô nói với Ðức Giêsu: "Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy?" Ðức Giêsu trả lời: "Nơi Thầy đi, bây giờ anh không thể theo đến được; nhưng sau này anh sẽ đi theo". (37) Ông Phêrô thưa: "Thưa Thầy, sao con lại không thể đi theo Thầy ngay bây giờ được? Con sẽ thí mạng con vì Thầy!" (38) Ðức Giêsu đáp: "Anh sẽ thí mạng vì Thầy ư? Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: gà chưa gáy, anh đã chối Thầy ba lần.
Chương 14 -
(1) Anh em đừng xao xuyến!
Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.
(2) Trong nhà Cha của Thầy, có nhiều chỗ ở;
nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi,
vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em.
(3) Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em,
thì Thầy sẽ trở lại
và đem anh em về với Thầy,
để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.
(4) Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi".
(5) Ông Tôma nói với Ðức Giêsu: "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?"
(6) Ðức Giêsu đáp:
"Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống.
Không ai đến với Chúa Cha
mà không qua Thầy.
(7) Nếu anh em biết Thầy,
anh em cũng biết Cha của Thầy.
Ngay từ bây giờ,
anh em biết Người và đã thấy Người".
(8) Ông Philípphê nói: "Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện".
(9) Ðức Giêsu trả lời:
"Thầy ở với anh em bấy lâu,
thế mà anh Philípphê,
anh chưa biết Thầy ư?
Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.
Sao anh lại nói:
'Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha'?
(10) Anh không tin rằng
Thầy ở trong Chúa Cha
và Chúa Cha ở trong Thầy sao?
Các lời Thầy nói với anh em,
Thầy không tự mình nói ra.
Nhưng Chúa Cha, Ðấng luôn ở trong Thầy,
chính Người làm những việc của mình.
(11) Anh em hãy tin Thầy:
Thầy ở trong Chúa Cha
và Chúa Cha ở trong Thầy;
bằng không, thì hãy tin vì chính các việc kia vậy.
(12) Thật, Thầy bảo thật anh em,
ai tin vào Thầy,
thì người đó cũng sẽ làm được
những việc Thầy làm.
Người đó còn làm những việc lớn lao hơn nữa,
bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.
(13) Và bất cứ điều gì
anh em nhân danh Thầy mà xin,
thì Thầy sẽ làm,
để Chúa Cha được tôn vinh nơi người Con.
(14) Nếu anh em nhân danh Thầy
mà xin Thầy điều gì,
thì chính Thầy sẽ làm điều đó.
(15) Nếu anh em yêu mến Thầy,
anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy.
(16) Thầy sẽ xin Chúa Cha
và Người sẽ ban cho anh em
một Ðấng Bảo Trợ khác
đến ở với anh em luôn mãi.
(17) Ðó là Thần Khí sự thật,
Ðấng mà thế gian không thể đón nhận,
vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người.
Còn anh em biết Người,
vì Người luôn ở giữa anh em
và ở trong anh em.
(18) Thầy sẽ không để anh em mồ côi.
Thầy đến cùng anh em.
(19) Chẳng bao lâu nữa,
thế gian sẽ không thấy Thầy.
Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy,
vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống.
(20) Ngày đó, anh em sẽ biết rằng
Thầy ở trong Cha Thầy,
anh em ở trong Thầy,
và Thầy ở trong anh em.
(21) Ai có và giữ các điều răn của Thầy,
người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy.
Mà ai yêu mến Thầy,
thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến.
Thầy sẽ yêu mến người ấy,
và sẽ tỏ mình ra cho người ấy".
(22) Ông Giuđa, không phải Giuđa Ítcariốt, nói với Ðức Giêsu: "Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?" (23)Ðức Giêsu đáp:
"Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy.
Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy.
Cha của Thầy và Thầy sẽ đến
và ở lại với người ấy.
(24) Ai không yêu mến Thầy,
thì không giữ lời Thầy.
và lời anh em nghe đây
không phải là của Thầy,
nhưng là của Cha, Ðấng đã sai Thầy.
(25) Các điều đó, Thầy đã nói với anh em,
đang khi còn ở với anh em,
(26) Nhưng khi Ðấng Bảo Trợ là Thánh Thần
Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy,
Ðấng đó sẽ dạy anh em mọi điều
và sẽ làm cho anh em nhớ lại
mọi điều Thầy đã nói với anh em.
(27) Thầy để lại bình an cho anh em,
Thầy ban cho anh em bình an của Thầy.
Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng.
Lòng anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.
(28) Anh em đã nghe Thầy bảo:
'Thầy ra đi và đến cùng anh em'.
Nếu anh em yêu mến Thầy,
thì hẳn anh em đã vui mừng
vì Thầy đến cùng Chúa Cha,
bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy.
(29) Bây giờ, Thầy nói với anh em
trước khi sự việc xảy ra,
để anh em tin khi sự ấy xảy ra.
(30) Thầy sẽ không còn nói nhiều
với anh em nữa,
bởi vì thủ lãnh thế gian đang đến.
Ðã hẳn, nó không làm gì được Thầy.
(31) Nhưng chuyện đó xảy ra
là để cho thế gian biết rằng
Thầy yêu mến Chúa Cha
và làm đúng như Chúa Cha đã truyền cho Thầy.
Nào đứng dậy! Ta đi khỏi đây!"
Chương 15 -
Cây nho thật
(1) "Thầy là cây nho thật,
và Cha Thầy là người trồng nho.
(2) Cành nào gắn liền với Thầy
mà không sinh hoa trái,
thì Người chặt đi;
còn cành nào sinh hoa trái,
thì Người cắt tỉa
cho nó sinh nhiều hoa trái hơn.
(3) Anh em được thanh sạch rồi
nhờ lời Thầy đã nói với anh em.
(4) Hãy ở lại trong Thầy
như Thầy ở lại trong anh em.
Cũng như cành nho không thể
tự mình sinh hoa trái,
nếu không gắn liền với cây nho,
anh em cũng thế,
nếu không ở lại trong Thầy.
(5) Thầy là cây nho, anh em là cành.
Ai ở trong Thầy
và Thầy ở lại trong người ấy,
thì người ấy sinh nhiều hoa trái,
vì không có Thầy,
anh em chẳng làm gì được.
(6) Ai không ở lại trong Thầy,
thì bị quăng ra ngoài như cành nho
và sẽ khô héo
Người ta nhặt lấy,
quăng vào lửa cho nó cháy đi.
(7) Nếu anh em ở lại trong Thầy
và lời Thầy ở lại trong anh em,
thì muốn gì, anh em cứ xin.
anh em sẽ được như ý.
(8) Ðiều làm Chúa Cha được tôn vinh là:
Anh em sinh nhiều hoa trái
và trở thành môn đệ của Thầy.
(9) Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào,
Thầy cũng yêu mến anh em như vậy.
Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy.
(10) Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy,
anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy,
như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy
và ở lại trong tình thương của Người.
(11) các điều ấy, Thầy đã nói với anh em
để niềm vui của Thầy ở trong anh em,
và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn.
(12) Ðây là điều răn của Thầy:
anh em hãy yêu thương nhau
như Thầy đã yêu thương anh em.
(13) Không ai có tình thương lớn hơn
tình thương của người hy sinh
mạng sống mình cho bạn hữu.
(14) Anh em là bạn hữu của Thầy,
nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy.
(15) Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa,
vì tôi tớ không biết việc chủ làm.
Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu,
vì tất cả những gì
Thầy nghe được nơi Cha của Thầy,
Thầy đã cho anh em biết.
(16) Không phải anh em đã chọn Thầy,
nhưng chính Thầy đã chọn anh em,
và cắt cử anh em để anh em ra đi,
sinh được hoa trái,
và hoa trái của anh em tồn tại,
hầu tất cả những gì
anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy,
thì Người ban cho anh em.
(17) Ðiều Thầy truyền dạy anh em
là hãy yêu thương nhau.
Các môn đệ và thế gian
(18) Nếu thế gian ghét anh em,
anh em hãy biết rằng
nó đã ghét Thầy trước.
(19) Giả như anh em thuộc về thế gian,
thì thế gian yêu thích cái gì thuộc về nó.
Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian
và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian,
nên thế gian ghét anh em.
(20) Hãy nhớ lời Thầy đã nói với anh em:
tôi tớ không lớn hơn chủ nhà.
Nếu họ đã bắt bớ Thầy,
họ cũng sẽ bắt bớ anh em.
Nếu họ đã tuân giữ lời Thầy,
họ cũng sẽ tuân giữ lời anh em.
(21) Nhưng họ sẽ làm tất cả những điều ấy
chống lại anh em,
vì anh em mang danh Thầy,
bởi họ không biết Ðấng đã sai Thầy.
(22) Giả như Thầy không đến
và không nói với họ,
họ đã chẳng có tội.
Nhưng bây giờ, họ không thể chữa tội được.
(23) Ai ghét Thầy, thì cũng ghét Cha của Thầy.
(24) Giả như Thầy không làm giữa họ
những việc không một ai khác đã làm,
họ đã không có tội.
Nhưng nay họ thấy rồi
mà vẫn ghét cả Thầy lẫn Cha Thầy.
(25) Như thế là ứng nghiệm
lời đã viết trong Sách Luật của họ:
Chúng ghét con vô cớ
(26) Khi Ðấng Bảo Trợ đến,
Ðấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em
từ nơi Chúa Cha,
Người là Thần Khí sự thật
phát xuất từ Chúa Cha,
Người sẽ làm chứng về Thầy.
(27) Cả anh em nữa,
anh em cũng làm chứng,
vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu.
Chương 17 -
Lời cầu nguyện của Ðức Giêsu
(1) Nói thế xong, Ðức Giêsu ngước mắt lên trời và nói rằng:
"Lạy Cha, giờ đã đến!
Xin Cha tôn vinh Con Cha
để Con Cha tôn vinh Cha,
(2) Thật vậy, Cha đã ban cho Người
quyền trên mọi phàm nhân
là để Người ban sự sống đời đời
cho tất cả những ai
Cha đã ban cho Người.
(3) Mà sự sống đời đời
đó là họ nhận biết Cha,
Thiên Chúa duy nhất và chân thật,
và nhận biết Ðấng Cha đã sai đến,
là Giêsu Kitô.
(4) Phần con, con đã tôn vinh Cha ở dưới đất,
khi hoàn tất công trình
Cha đã giao cho con làm.
(5) Vậy lạy Cha,
giờ đây, xin Cha tôn vinh con bên Cha:
xin ban cho con vinh quang
mà con vẫn được hưởng bên Cha
trước khi có thế gian.
(6) Những kẻ Cha đã chọn từ giữa thế gian
mà ban cho con,
con đã cho họ biết danh Cha.
Họ thuộc về Cha,
Cha đã ban họ cho con,
và họ đã tuân giữ lời Cha.
(7) Giờ đây, họ biết rằng
tất cả những gì Cha ban cho con
đều do bởi Cha,
(8) vì con đã ban cho họ
lời mà Cha đã ban cho con;
họ đã nhận những lời ấy,
họ biết thật rằng
con đã từ Cha mà đến,
và họ đã tin là Cha đã sai con.
(9) Con cầu nguyện cho họ.
Con không cầu nguyện cho thế gian,
nhưng cho những kẻ Cha đã ban cho con,
bởi vì họ thuộc về Cha.
(10) Tất cả những gì của con đều là của Cha,
tất cả những gì của Cha đều là của con;
và con được tôn vinh nơi họ.
(11) Con không còn ở trong thế gian nữa,
nhưng họ, họ ở trong thế gian;
phần con, con đến cùng Cha.
Lạy Cha chí thánh,
xin gìn giữ các môn đệ
trong danh Cha mà Cha đã ban cho con,
để họ nên một như chúng ta.
(12) Khi còn ở với họ,
con đã gìn giữ họ
trong danh Cha mà Cha đã ban cho con.
Con đã canh giữ,
và không một ai trong họ phải hư mất,
trừ đứa con hư hỏng,
để ứng nghiệm lời Kinh Thánh.
(13) Bây giờ, con đến cùng Cha,
và con nói những điều này
lúc còn ở thế gian,
để họ được hưởng trọn vẹn
niềm vui của con.
(14) Con đã truyền lại cho họ lời của Cha,
và thế gian đã ghét họ,
vì họ không thuộc về thế gian,
cũng như con đây không thuộc về thế gian.
(15) Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian,
nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần.
(16) Họ không thuộc về thế gian
cũng như con đây không thuộc về thế gian.
(17) Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ.
Lời Cha là sự thật.
(18) Như Cha đã sai con đến thế gian,
thì con cũng sai họ đến thế gian.
(19) Con xin thánh hiến chính mình con cho họ,
để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến.
(20) Con không chỉ cầu nguyện cho những người này,
nhưng còn cho những ai
nhờ lời họ mà tin vào con,
(21) để tất cả nên một,
như, lạy Cha, Cha ở trong con và con ở trong Cha
để họ cũng ở trong chúng ta.
Như vậy, thế gian sẽ tin rằng
Cha đã sai con.
(22) Phần con, con đã ban cho họ vinh quang
mà Cha đã ban cho con,
để họ được nên một
như chúng ta là một:
(23) Con ở trong họ và Cha ở trong con,
để họ được hoàn toàn nên một;
như vậy, thế gian sẽ nhận biết
là chính Cha đã sai con
và đã yêu thương họ
như đã yêu thương con.
(24) Lạy Cha,
con muốn rằng con ở đâu,
thì những người Cha đã ban cho con
cũng ở đó với con,
để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con,
vinh quang mà Cha đã ban cho con,
vì Cha đã yêu thương con
trước khi thế gian được tạo thành.
(25) Lạy Cha là Ðấng công chính,
thế gian đã không biết Cha,
nhưng con, con đã biết Cha,
và những người này đã biết
là chính Cha đã sai con.
(26) Con đã cho họ biết danh Cha,
và sẽ còn cho họ biết nữa,
để tình Cha đã yêu thương con, ở trong họ,
và con cũng ở trong họ nữa".
CHƯƠNG 18 - Tin Mừng theo Thánh Gioan
2. Cuộc Thương Khó
Ðức Giêsu bị bắt giữ
(1) Sau khi nói những lời đó, Ðức Giêsu đi ra cùng với các môn đệ, sang bên kia suối Kítrôn. Ở đó, có một thửa vườn, Người cùng với môn đệ đi vào. (2) Giuđa, kẻ nộp Người, cũng biết nơi này, vì Người thường tụ họp ở đó với các môn đệ. (3) Vậy, Giuđa tới đó, dẫn một toán quân cùng đám thuộc hạ của các thượng tế và nhóm Pharisêu; họ mang theo đèn đuốc và khí giới. (4) Ðức Giêsu biết mọi việc sắp xảy đến cho mình, nên tiến ra và hỏi: "Các anh tìm ai?" (5) Họ đáp: "Tìm ông Giêsu Nadarét". Người nói: "Chính tôi đây". Giuđa, kẻ nộp Người, cũng đứng chung với họ. (6) Khi Người vừa nói: "Chính tôi đây", thì họ lùi lại và ngã xuống đất. (7)Người lại hỏi một lần nữa: "Các anh tìm ai?" Họ đáp: "Tìm ông Giêsu Nadarét". (8) Ðức Giêsu nói: "Tôi đã bảo các anh là chính tôi đây. Vậy, nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy để cho những người này đi". (9) Thế là ứng nghiệm lời Ðức Giêsu đã nói:
"Những người Cha đã ban cho con,
con không để mất một ai".
(10) Ông Simon Phêrô có sẵn một thanh gươm, bèn tuốt ra, nhằm người đầy tớ vị thượng tế, mà chém đứt tai phải của y. Người đầy tớ ấy tên là Mankhô. (11)Ðức Giêsu nói với ông Phêrô: "Hãy xỏ gươm vào bao. Chén đắng Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống?"
Ðức Giêsu bị điệu ra trước các ông Khanna và Caipha
Ông Phêrô chối Thầy
(12) Bấy giờ toán quân và viên chỉ huy cùng đám thuộc hạ của người Dothái bắt Ðức Giêsu và trói Người lại. (13) Trước tiên, họ điệu Ðức Giêsu đến ông Khanna là nhạc phụ ông Caipha. Ông Caipha làm thượng tế năm đó. (14) Chính ông này đã đề nghị với người Dothái là nên để một người chết thay cho dân thì hơn.
(15) Ông Simon Phêrô và một môn đệ khác đi theo Ðức Giêsu. Người môn đệ này quen biết vị thượng tế, nên cùng với Ðức Giêsu vào sân trong của tư dinh vị thượng tế. (16) Còn ông Phêrô đứng ở phía ngoài, gần cổng. Người môn đệ kia quen biết vị thượng tế ra nói với chị giữ cổng, rồi dẫn ông Phêrô vào. (17) Người tớ gái giữ cổng nói với Phêrô: "Cả bác nữa, bác không thuộc nhóm môn đệ của người ấy sao?" Ông liền đáp: "Ðâu phải". (18) Vì trời lạnh, các đầy tớ và thuộc hạ đốt than và đứng sưởi ở đó; ông Phêrô cũng đứng sưởi với họ. (19) Vị thượng tế tra hỏi Ðức Giêsu về các môn đệ và giáo huấn của Người. (20) Ðức Giêsu trả lời: "Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ; tôi hằng giảng dạy trong hội đường và tại Ðền Thờ, nơi mọi người Dothái tụ họp. Tôi không hề nói điều gì lén lút. (21) Sao ông lại hỏi tôi? Ðiều tôi đã nói, xin cứ hỏi những người đã nghe tôi. Chính họ biết tôi đã nói gì". (22) Ðức Giêsu vừa dứt lời, thì một tên trong nhóm thuộc hạ đứng đó vả vào mặt Người mà nói: "Anh trả lời vị thượng tế như thế ư?" (23) Ðức Giêsu đáp:
"Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chổ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?" (24) Ông Khanna cho giải Người đến thượng tế Caipha, Người vẫn bị trói.
(25) Còn ông Simon Phêrô thì vẫn đứng sưởi ở đó. Người ta nói với ông: "Cả bác nữa, bác không thuộc nhóm môn đệ của ông ấy sao?" Ông liền chối: "Ðâu phải".(26) Một trong các đầy tớ của vị thượng tế, có họ với người bị ông Phêrô chém đứt tai, lên tiếng hỏi: "Tôi đã chẳng thấy bác ở trong vườn với ông ấy sao?" (27) Một lần nữa ông Phêrô lại chối, và ngay lúc ấy gà liền gáy.
Ðức Giêsu bị điệu ra trước tổng trấn Phi-la-tô
(28) Vậy, người Dothái điệu Ðức Giêsu từ nhà ông Caipha đến dinh tổng trấn. Lúc đó trời vừa sáng. Nhưng họ không vào dinh kẻo bị nhiễm uế mà không ăn lễ Vượt Qua được. (29) Vì thế, tổng trấn Philatô ra ngoài gặp họ và hỏi: "Các người tố cáo người này về tội gì?" (30) Họ đáp: "Nếu ông này không làm điều ác, thì chúng tôi đã chẳng đem nộp cho quan". (31) Ông Philatô bảo họ: "Các người cứ đem ông ta đi mà xét xử theo luật của các người". Người Dothái đáp: "Chúng tôi không có quyền xử tử ai cả". (32) Thế là ứng nghiệm lời Ðức Giêsu đã nói, khi ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào.
(33) Ông Philatô trở vào dinh, cho gọi Ðức Giêsu và nói với Người: "Ông có phải là vua dân Dothái không?" (34) Ðức Giêsu đáp: "Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?" (35) Ông Philatô trả lời: "Tôi là người Dothái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?"(36) Ðức Giêsu trả lời:
"Nước tôi không thuộc về thế gian này.
Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này,
thuộc hạ của tôi đã chiến đấu
không để tôi bị nộp cho người Dothái.
Nhưng nay Nước tôi không thuộc chốn này".
(37) Ông Philatô liền hỏi: "Vậy ông là vua sao?" Ðức Giêsu đáp:
"Chính ngài nói rằng tôi là vua.
Tôi đã sinh ra
và đã đến thế gian vì điều này:
đó là để làm chứng cho sự thật.
Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi".
(38) Ông Philatô nói với Người: "Sự thật là gì?"
Nói thế rồi, ông lại ra gặp người Dothái và bảo họ: "Phần ta, ta không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy. (39) Theo tục lệ của các người, vào dịp lễ Vượt Qua, ta thường tha cho một người nào đó cho các người. Vậy các người có muốn ta tha vua dân Dothái cho các người không?" (40) Họ lại la lên rằng: "Ðừng tha nó, nhưng xin tha Baraba!" Mà Baraba là một tên cướp.
Tin Mừng Gioan Chương 19
(1) Bấy giờ ông Philatô truyền đem Ðức Giêsu đi và đánh đòn Người. (2) Bọn lính kết một vòng gai làm vương miện, đặt lên đầu Người, và khoác cho Người một áo choàng đỏ. (3) Họ đến gần và nói: "Kính chào Vua dân Dothái!", rồi vả vào mặt Người.
(4) Ông Philatô lại ra ngoài và nói với người Dothái: "Ðây ta dẫn ông ấy ra ngoài cho các người, để các người biết là ta không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy". (5) Vậy, Ðức Giêsu bước ra ngoài, đầu đội vương miện bằng gai, mình khoác áo choàng đỏ. Ông Philatô nói với họ: "Ðây là người!" (6) Khi vừa thấy Ðức Giêsu, các thượng tế cùng các thuộc hạ liền kêu lên rằng: "Ðóng đinh, đóng đinh nó vào thập giá!" Ông Philatô bảo họ: "Các người cứ đem ông này đi mà đóng đinh vào thập giá, vì phần ta, ta không tìm thấy lý do để kết tội ông ấy". (7) Người Dothái đáp lại: "Chúng tôi có Lề Luật; và chiếu theo Lề Luật, thì nó phải chết, vì nó đã xưng mình là Con Thiên Chúa".
(8) Nghe lời đó, ông Philatô càng sợ hơn nữa. (9) Ông lại trở vào dinh và nói với Ðức Giêsu: "Ông từ đâu mà đến?" Nhưng Ðức Giêsu không trả lời. (10) Ông Philatô mới nói với Người: "Ông không trả lời tôi ư? Ông không biết rằng tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao?" (11) Ðức Giêsu đáp lại: "Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn".
Ðức Giêsu bị kết án tử hình
(12) Từ đó, ông Philatô tìm cách tha Người. Nhưng dân Dothái kêu lên rằng: "Nếu ngài tha nó, ngài không phải là bạn của Xêda. Ai xưng mình là vua, thì chống lại Xêda". (13) Khi nghe thấy thế, ông Philatô truyền dẫn Ðức Giêsu ra ngoài. Ông đặt Người ngồi trên tòa, ở nơi gọi là Nền Ðá, tiếng Hípri là Gápbatha. (14) Hôm ấy là ngày áp lễ Vượt Qua, vào khoảng mười hai giờ trưa. Ông Philatô nói với người Dothái: "Ðây là vua các người!" (15) Họ liền la lớn: "Ðem đi! Ðem nó đi! Ðóng đinh nó vào thập giá!" Ông Philatô nói với họ: "Chẳng lẽ ta lại đóng đinh vua các người sao?" Các thượng tế đáp: "Chúng tôi không có vua nào cả, ngoài Xêda". (16) Bấy giờ ông Philatô trao Ðức Giêsu cho họ đóng đinh vào thập giá.
Ðức Giêsu chịu đóng đinh vào thập giá
Vậy họ điệu Ðức Giêsu đi. (17) Chính Người vác lấy thập giá đi ra, đến nơi gọi là Cái Sọ, tiếng Hípri là Gôngôtha; (18) tại đó, họ đóng đinh Người vào thập giá, đồng thời cũng đóng đinh hai người khác nữa, mỗi người một bên, còn Ðức Giêsu thì ở giữa. (19) Ông Philatô cho viết một tấm bảng và treo trên thập giá; bảng đó có ghi: "Giêsu Nadarét, Vua dân Dothái". (20) trong dân Dothái, có nhiều người đọc được bảng đó, vì nơi Ðức Giêsu bị đóng đinh là một địa điểm ỏ gần thành. Tấm bảng này viết bằng các tiếng Hípri, Latinh và Hylạp. (21) Các thượng tế của người Dothái nói với Philatô: "Xin ngài đừng viết: "Vua dân Dothái" nhưng viết: "Tên này đã nói: Ta là Vua dân Dothái". (22) "Ông Philatô trả lời: "Ta viết sao, cứ để vậy!"
Lính tráng chia nhau áo xống của Ðức Giêsu
(23) Ðóng đinh Ðức Giêsu vào thập giá xong, lính tráng lấy áo xống của Người chia làm bốn phần; họ lấy cả chiếc áo dài nữa. Nhưng chiếc áo dài này không có đường khâu, dệt liền từ trên xuống dưới. (24) Vậy họ nói với nhau: "Ðừng xé áo ra, cứ bắt thăm xem ai được". Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh:
Áo xống tôi, chúng đem chia chác,
còn áo dài, cũng bắt thăm luôn.
Ðó là những điều lính tráng đã làm.
Ðức Giêsu và thân mẫu của Người
(25) Ðứng gần thập giá Ðức Giêsu, có thân mẫu Người, chị của bà thân mẫu, bà Maria vợ ông Cơlôpát, cùng với bà Maria Mácđala. (26) Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Ðức Giêsu nói với thân mẫu rằng: "Thưa Bà, đây là con của Bà". (27) Rồi Người nói với môn đệ: "Ðây là mẹ của anh". Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình.
Ðức Giêsu chết trên thập giá
(28) Sau đó, Ðức Giêsu biết là mọi sự đã hoàn tất. Và để ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Người nói:
"Tôi khát!"
(29) Ở đó, có một bình đầy giấm. Người ta lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Người. (30) Nhắp xong, Ðức Giêsu nói: "Thế là đã hoàn tất!" Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí.
Ðức Giêsu bị lưỡi đòng đâm thâu
(31) Hôm đó là ngày áp lễ, người Dothái không muốn để xác chết trên thập giá trong ngày sabát, mà ngày sabát đó lại là ngày lễ lớn. Nên họ xin ông Philatô cho đánh giập ống chân các người bị đóng đinh và lấy xác xuống. (32) Quân lính đến, đánh giập ống chân người thứ nhất và người thứ hai cùng bị đóng đinh với Ðức Giêsu. (33) Khi đến gần Ðức Giêsu và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người. (34) Nhưng một người lính lấy giáo đâm cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra. (35) Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin. (36) Các việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh:
Không một khúc xương nào của Người sẽ bị đánh giập.
(37) Lại có lời Kinh Thánh khác:
Họ sẽ nhìn lên Ðấng họ đã đâm thâu.
Ðức Giêsu được mai táng
(38) Sau đó, ông Giôxép, người Arimathê, xin ông Philatô cho phép hạ thi hài Ðức Giêsu xuống. Ông Giôxép này là một môn đệ theo Ðức Giêsu, nhưng cách kín đáo, vì sợ người Dothái. Ông Philatô chấp thuận. Vậy, ông Giôxép đến hạ thi hài Người xuống. (39) Ông Nicôđêmô cũng đến. Ông này trước kia đã tới gặp Ðức Giêsu ban đêm. Ông mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương. (40) Các ông lãnh thi hài Ðức Giêsu, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà cuốn, theo tục lệ chôn cất của người Dothái. (41) Nơi Ðức Giêsu bị đóng đinh có một thửa vườn, và trong vườn, có một ngôi mộ còn mới, chưa chôn cất ai. (42) Vì hôm ấy là ngày áp lễ của người Dothái, mà ngôi mộ lại gần bên, nên các ông mai táng Ðức Giêsu ở đó.
Tin Mừng Gioan chương 20
3. Ngày Phục Sinh
Ngôi mộ trống
(1) Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. (2) Bà liền chạy về gặp ông Simon Phêrô và người môn đệ Ðức Giêsu thương mến. Bà nói: "Người ta đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu?.
(3) Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. (4) Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. (5) Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. (6) Ông Simon Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, (7) và khăn che đầu Ðức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. (8) Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. (9) Thật vậy, trước đó hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Ðức Giêsu phải chổi dậy từ cõi chết. (10) Sau đó, các môn đệ lại trở về nhà.
Ðức Giêsu hiện ra với bà Ma-ri-a Mác-đa-la
(11) Bà Maria đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa khóc vừa cúi xuống nhìn vào trong mộ, (12) thì thấy hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài của Ðức Giêsu, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân. (13) Thiên thần hỏi bà: "Này bà, sao bà khóc?" Bà thưa: "Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu!" (14) Nói xong, bà quay lại và thấy Ðức Giêsu đứng đó, nhưng bà không biết là Ðức Giêsu. (15) Ðức Giêsu nói với bà: "Này bà, sao bà khóc? Bà tìm ai?" Bà Maria tưởng là người làm vườn, liền nói: "Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về". (16)Ðức Giêsu gọi bà: "Maria!" Bà quay lại và nói bằng tiếng Hípri: "Rápbuni!" (nghĩa là 'lạy Thầy'). (17) Ðức Giêsu bảo: "Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: 'Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em'". (18) Bà Maria Mácđala đi báo cho các môn đệ: "Tôi đã thấy Chúa", và bà kể lại những điều Người đã nói với bà.
Ðức Giêsu hiện ra với các môn đệ
(19) Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Dothái. Ðức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "Chúc anh em được bình an!" (20) Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. (21) Người lại nói với các ông:
"Chúc anh em được bình an!
như Chúa Cha đã sai Thầy,
thì Thầy cũng sai anh em".
(22) Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo:
"Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.
(23) Anh em tha tội cho ai,
thì người ấy được tha;
anh em cầm giữ ai,
thì người ấy bị cầm giữ".
(24) Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tôma, cũng gọi là Ðiđymô, không ở với các ông khi Ðức Giêsu đến. (25) các môn đệ khác nói với ông: "Chúng tôi đã được thấy Chúa!" Ông Tôma đáp: "Nêu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin". (26) Tám ngày sau, các môn đệ Ðức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Tôma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Ðức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "Chúc anh em được bình an" (27) Rồi Người bảo Tôma: "Ðặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Ðưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Ðừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin". (28) Ông Tôma thưa Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!" (29) Ðức Giêsu bảo:
"Vì đã thấy Thầy, nên anh tin.
Phúc thay những người không thấy mà tin!"
4. Kết Luận Thứ Nhất
(30) Ðức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. (31) Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Ðức Giêsu là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.
Tin Mừng Gioan Chương 21
IV. Ðoạn Cuối
Ðức Giêsu hiện ra ở bờ Biển Hồ Ti-bê-ri-a
(1) Sau đó, Ðức Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Tibêria. Người tỏ mình ra như thế này. (2) Ông Simon Phêrô, ông Tôma gọi là Ðiđymô, ông Nathanaen người Cana miền Galilê, các người con ông Dêbêđê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. (3) Ông Simon nói với các ông: "Tôi đi đánh cá đây". Các ông đáp: "Chúng tôi cùng đi với anh". Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.
(4) Khi trời đã sáng, Ðức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Ðức Giêsu. (5) Người nói với các ông: "Này các chú, không có gì ăn ư?" Các ông trả lời: "Thưa không". (6) Người bảo các ông: "Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, anh em sẽ bắt được cá". Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá. (7) Người môn đệ được Ðức Giêsu thương mến nói với Phêrô: "Chúa đó!" Vừa nghe nói "Chúa đó!", ông Simon Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. (8) Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.
(9) Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. (10) Ðức Giêsu bảo các ông: "Ðem ít cá mới bắt được tới đây!" (11) Ông Simon Phêrô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách. (12) Ðức Giêsu nói: "Anh em đến mà ăn!" Không ai trong các môn đệ dám hỏi "ông là ai?", vì các ông biết rằng đó là Chúa. (13) Ðức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy. (14) Ðó là lần thứ ba Ðức Giêsu tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi chỗi dậy từ cõi chết.
(15) Khi các môn đệ ăn xong, Ðức Giêsu hỏi ông Simon Phêrô: "Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?" Ông đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy". Ðức Giêsu nói với ông: "Hãy chăm sóc chiên con của Thầy". (16) Người lại hỏi: "Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy không?" Ông đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy". Người nói: "Hãy chăn dắt chiên của Thầy". (17) Người hỏi lần thứ ba: "Này anh Simon, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?" Ông Phêrô buồn vì Người hỏi tới ba lần: "Anh có yêu mến Thầy không?" Ông đáp: "Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy". Ðức Giêsu bảo: "Hãy chăm sóc chiên của Thầy.
(18) Thật, Thầy bảo thật cho anh biết:
lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy,
và đi đâu tùy ý.
Nhưng khi đã về già,
anh sẽ phải giang tay ra
cho người khác thắt lưng
và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn".
(19) Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: "Hãy theo Thầy".
(20) Ông Phêrô quay lại, thì thấy người môn đệ Ðức Giêsu thương mến đi theo sau; ông này là người đã nghiêng mình vào ngực Ðức Giêsu trong bữa ăn tối và hỏi: "Thưa Thầy, ai là kẻ nộp Thầy?" (21) Vậy khi thấy người đó, ông Phêrô nói với Ðức Giêsu: "Thưa Thầy, còn anh này thì sao?" (22) Ðức Giêsu đáp: "Giả như Thầy muốn anh ấy còn ở lại cho tới khi Thầy đến, thì việc gì đến anh? Phần anh, hãy theo Thầy". (23) Do đó mới có tiếng đồn giữa anh em là môn đệ ấy sẽ không chết. Nhưng Ðức Giêsu đã không nói với Phêrô là: "Anh ấy sẽ không chết", mà chỉ nói: "Giả như Thây muốn anh ấy còn ở lại cho tới khi Thầy đến, thì việc gì đến anh?"
Kết luận
(24) Chính môn đệ này làm chứng về những điều đó và đã viết ra. Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực.
(25) Còn có nhiều điều khác Ðức Giêsu đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra.